QĐND - Bà Lê Thị Thoa, phu nhân cố Thượng tướng Trần Văn Trà (tên thật là Nguyễn Chấn) là người phụ nữ đức độ, nhân từ, tài sắc. Không chỉ làm tròn vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình cho chồng an tâm lo việc cách mạng, bà còn là người đồng đội thân thiết, kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ cùng chồng trong nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng. Nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng kỳ này chuyển đến bạn đọc lời kể của bà Lê Thị Thoa ở căn cứ Dương Minh Châu, Chiến khu Đ trong kháng chiến chống Pháp, giai đoạn đã để lại dấu ấn đặc biệt sâu sắc trong cuộc đời bà.

Bà Lê Thị Thoa ở Chiến khu D năm 1954. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Tháng 2-1954, tôi và anh Trần Văn Trà chính thức trở thành vợ chồng. Đám cưới được tổ chức gọn nhẹ nhưng thật ấm cúng, tình cảm ngay tại Văn phòng Bộ tư lệnh Phân khu Đông Nam Bộ ở căn cứ Dương Minh Châu, Chiến khu Đ, tỉnh Tây Ninh. Chúng tôi sinh sống trong một căn nhà lá mộc mạc đơn sơ nhưng khá xinh xắn, phía dưới dùng làm nơi làm việc của anh, trên gác là nơi nghỉ ngơi của hai vợ chồng. Trước khi vào chiến khu, tôi từng có thời gian dài làm Trạm trưởng Trạm y tế xã Biển Trạch, huyện Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu nên khi vào Chiến khu được Bộ tư lệnh bố trí làm y tá ở Văn phòng Bộ tư lệnh. Sống ở Miền Tây sông nước quen rồi, giờ lên rừng, cái gì đối với tôi cũng ngỡ ngàng, xa lạ. Tôi tự nhủ sẽ cố gắng nỗ lực để làm quen và chủ động với nhiệm vụ mới, giúp chồng an tâm công tác. Trước khi vào Chiến khu, tôi cứ nghĩ, chắc ở rừng Miền Đông không có con gái nên tổ chức mới phải lặn lội xuống tận miền Tây tìm tôi để mai mối cho anh. Nhưng hóa ra không phải. Ở đây có rất nhiều chị em. Có những chị rất xinh đẹp. Đa số các chị đều rất giỏi giang, cỡ tay nghề y tá như tôi lên đây chỉ là hạng “bét”. Các chị sống chan hòa, tình cảm và đều rất yêu quý, giúp đỡ tôi tận tình. Đêm đầu tiên ở Chiến khu, tôi hỏi anh:

- Ở đây có nhiều chị, nhiều cô xinh đẹp, lại chưa chồng, sao anh không lấy lại xuống tận miền Tây tìm vợ cho vất vả?

Anh vuốt tóc tôi, mỉm cười bảo:

- Các cô gái ở đây ai cũng có người để ý cả rồi.

Tôi nói:

- Con gái đẹp, có nhiều người để ý là chuyện bình thường thôi. Anh mà đặt vấn đề sẽ có nhiều người mở lòng lắm đấy!

Anh nói tiếp, giọng nhỏ nhẹ:

- Đã đành là vậy. Nhưng mình là thủ trưởng, lại đi hỏi người đã có nơi có chốn để thương nhớ, liệu có nên không?

Đồng chí Trần Văn Trà trên đường đi công tác ở căn cứ Dương Minh Châu trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh chụp lại.

Nghe anh nói vậy, tôi lén quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt xúc động vì sung sướng. Trước khi quyết định lấy anh, tôi đã nghe nhiều người kể về anh, ai cũng nói anh là con người tài giỏi, sống nhân hậu, thủy chung, hết lòng vì mọi người, thương yêu cấp dưới và chiến sĩ như tình máu mủ. Giờ được chứng kiến việc làm của anh, tôi thực sự cảm động. Không chỉ nhường cơm, sẻ áo, đồng cam cộng khổ cùng mọi người, anh còn hy sinh cả những cảm xúc riêng tư để lo cho hạnh phúc của người khác. Với cương vị của anh, giả sử anh có hỏi cô nào đó ở đây làm vợ cũng là chuyện thường tình. Nhưng khi biết các chị, các cô đều đã có người thương nhớ, anh lo vun đắp cho hạnh phúc của anh chị em. Tôi hiểu, những việc anh làm xuất phát từ tâm đức của một người chỉ huy đối với cán bộ và chiến sĩ thuộc quyền. Anh được mọi người quý mến, kính trọng cũng chính từ cái tâm, cái đức cao đẹp ấy. Nghe anh nói, tôi lại nhớ đến một kỷ niệm khi còn học Trường Nguyễn Văn Tố ở Miền Tây năm 1949. Hồi đó ở trường tôi có một chị rất xinh đẹp, đang yêu một anh ở gần đó. Lần ấy có một đoàn cán bộ cấp trên về trường. Anh trưởng đoàn gặp chị ấy thì đem lòng yêu thương. Mặc dù chị nói, chị đã có người yêu nhưng anh cán bộ vẫn nhất quyết theo đuổi và định chuyển công tác chị ấy về tuyến trên cho gần anh để anh có nhiều cơ hội đạt được mục đích. Chúng tôi biết chuyện đã phản đối quyết liệt để bảo vệ tình yêu cho chị ấy, buộc anh cán bộ phải từ bỏ ý định. Nghĩ đến chuyện ấy, tôi lại hạnh phúc cười thầm trong bụng, một cảm giác tự hào lâng lâng khi mình may mắn được làm vợ anh.

Bà Lê Thị Thoa tháng 4-2013. Ảnh: Đức Thọ.

Tôi vừa làm y tá của Văn phòng Bộ tư lệnh, vừa trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho anh. Anh phải thức đêm làm việc nhiều, có những giai đoạn cường độ công việc quá lớn, anh hầu như không có thời gian nghỉ ngơi khiến sức khỏe anh xuống cấp trầm trọng. Hằng ngày tôi phải tiêm thuốc trợ lực cho anh theo toa của bác sĩ. Khi khỏe lên, anh lại đi công tác, có khi đi cả tuần mới về. Bấy giờ tôi mới thấu hiểu sâu sắc lời của anh Lê Đức Thọ, người đã mai mối để anh lấy tôi làm vợ: “Vai trò của anh Trần Văn Trà đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Cô đồng ý làm vợ anh ấy cũng có nghĩa là cô đang làm việc cách mạng, có đóng góp quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng!”. Tôi càng ngày càng ý thức rõ hơn về nhiệm vụ của anh và tự dặn mình, phải cố gắng để vừa là người vợ hiền, vừa là người đồng chí gần gũi nhất của anh, cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi giúp anh hoàn thành sứ mệnh Đảng giao phó.

Dạo ấy ở Chiến khu cuộc sống hết sức khó khăn, thiếu thốn. Tôi ở Miền Tây quen với cảnh cá đầy sông, hoa trái đầy vườn, giờ lên đây phải chịu thiếu thốn, ban đầu cũng thấy khó chịu nhưng vì đã xác định tốt trách nhiệm cùng với sự giúp đỡ của các anh, các chị ở đây nên tôi đã hòa nhập khá nhanh. Hồi ấy, anh Phạm Hùng có tặng cho vợ chồng tôi một gói đường cát, được đâu chừng vài lạng, còn Vũ Hắc Bồng thì tặng cho một cục xà bông thơm. Trong điều kiện lúc bấy giờ, những thứ ấy quý như vàng. Tôi biết, các anh ấy rất thân thiết, quý mến vợ chồng tôi nên mới dành cho chúng tôi những nghĩa cử ấy. Cùng làm việc với tôi có một chị tên là Hường. Chị Hường có cậu con trai chừng 3-4 tuổi, rất dễ thương, kháu khỉnh. Một hôm chị Hường bế con đến nhà tôi chơi. Trong nhà chỉ có lọ đường là thứ quà tốt nhất dành cho bé nên tôi bèn lấy muỗng xúc đường đút cho cháu ăn. Vậy nhưng vừa thấy tôi đưa muỗng đường lên miệng, cháu bé đã bặm môi lại, khóc ré lên: “Cái này mặn lắm, cháu không ăn đâu”! Tôi buồn cười trước thái độ của cháu nên ra sức dỗ dành rằng đường ngọt như kẹo chứ không “mặn”, nhưng cháu vẫn nhất định không ăn. Chỉ đến khi mẹ cháu giải thích đây không phải là muối, mẹ cháu nếm thử cho cháu xem thì cháu mới chịu há miệng. Phát hiện ra vị ngọt, cháu bé ăn lấy ăn để. Thì ra trước đó, có lần cháu thấy mẹ lấy muỗng xúc muối đựng trong một cái lọ để nấu ăn, cháu nghĩ muối là thứ ăn được ngay nên đã tò mò xúc một muỗng muối cho vào miệng. Khổ thân cháu, vị muối mặn đã làm cháu gần như chết khiếp và trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng.

Nhìn cái miệng xinh xinh của cháu bé ăn từng muỗng đường một cách ngon lành, tôi ứa nước mắt. Cuộc sống ở Chiến khu khó khăn, cực khổ đến mức những cháu bé đang tuổi bế ẵm còn chả biết đến miếng đường là gì thì nói gì đến người lớn. Trong lòng tôi dậy lên cảm xúc bùi ngùi. Tôi thêm thấm thía những lời tâm sự của anh, rằng cuộc kháng chiến của Đảng và nhân dân ta còn trường kỳ gian khổ. Quân và dân ta còn phải trải qua nhiều khó khăn, mất mát, hy sinh. Tôi cũng hiểu thêm rằng, cũng chính trong sự gian khổ, khó khăn ấy, các giá trị của tình đồng bào, đồng chí, tình yêu, tình bạn… hơn lúc nào hết lại được nhân lên, hòa quyện vào nhau. Dù phải đương đầu với vô vàn thử thách, gian khổ, hy sinh nhưng ai cũng vững vàng một niềm tin sắt đá, cách mạng nhất định thành công, kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi.

Tôi khẽ lấy khăn chấm khóe mắt rồi cầm lọ đường đặt vào tay chị Hường: “Chị đem về cho cháu ăn, pha nước cho cháu uống!”. Chị Hường rụt đôi bàn tay lại: “Cháu lớn rồi, không cần đến thứ này đâu. Cô để dành, ít lâu nữa sinh nở còn có mà khuấy bột cho cháu”. Tôi phải nài nỉ mãi chị Hường mới chịu nhận.

Thời gian tôi ở Chiến khu không nhiều vì sau đó ít lâu chúng tôi tập kết ra Bắc. Nhưng đó là giai đoạn hết sức quan trọng và đáng nhớ trong cuộc đời tôi. Sống và làm việc ở Chiến khu, được hoạt động cùng anh và các anh, các chị ở Văn phòng Bộ tư lệnh, tôi được bồi đắp niềm tin, lý tưởng và bầu nhiệt huyết cách mạng và trưởng thành về mọi mặt. Đến bây giờ nghĩ lại, tôi luôn tự hào về những năm tháng ấy. Cuộc sống ở Chiến khu có những giai đoạn ở tận đáy của sự gian khổ nhưng chính những lúc ấy, tình yêu thương, san sẻ, sự lãng mạn cách mạng lại như được chắp cánh bay vút lên…

Bài và ảnh: THANH KIM TÙNG