Biết tiếng Trung tướng Lê Hữu Đức đã lâu nhưng gần đây tôi mới có dịp đến thăm. Nhiều năm liền ông có mặt ở chiến trường Liên khu 5 và Tây Nguyên gần suốt hai cuộc kháng chiến. Ông là vị chỉ huy nổi tiếng dũng cảm và làm công tác tham mưu giỏi. Đã ngoài tuổi 80 nhưng Trung tướng vẫn còn khoẻ mạnh, không “râu hùm hàm én mày ngài” nhưng vẫn có cái uy của một vị tướng: to cao, mắt sáng, giọng nói vang có sức lôi cuốn lạ. Ông vui vẻ, thân tình, kể chuyện chiến đấu bằng một trí nhớ tuyệt vời. Ông nhớ như in từng trận đánh trong kháng chiến đến công tác tham mưu trong Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Tôi càng hiểu vì sao, ở tuổi 82-nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ông được giải nhất trong cuộc thi viết về “Ký ức mùa xuân đại thắng” do báo Quân đội nhân dân tổ chức.
Rồi có một dịp, vui chuyện, ông kể cho tôi nghe về người bạn đời đầu tiên với một tình yêu thương đằm thắm:
“Năm 1943 vào Huế, vừa làm để có tiền ăn học, tôi có dịp đến với phong trào Việt Minh bí mật, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ngày 23-8-1945. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tôi nhập ngũ thuộc tiểu đoàn 1 mang tên Trần Cao Vân lên đường “Nam tiến”. Ngày 1-10-1945, đơn vị vào Nha Trang, tham gia chiến đấu ngay khi Pháp đổ quân xuống đây hòng chiếm Nha Trang, Khánh Hòa. Tròn 100 ngày chiến đấu ác liệt kìm chân địch ở Nha Trang, quân và dân Nha Trang được Bác Hồ gửi thư khen. Theo chủ trương của cấp trên, đơn vị chúng tôi rút về Tuy Hòa thành lập chi đội 2, lúc đầu mới có 2 tiểu đoàn. Tôi được đề bạt làm đại đội trưởng kiêm bí thư chi bộ. Vừa luyện tập chiến đấu vừa xây dựng, đơn vị lần lượt đóng quân trên địa bàn Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Đà Nẵng. Trước ngày Toàn quốc kháng chiến tôi được đề bạt tiểu đoàn phó tiểu đoàn 17.
Đầu năm 1947, tôi gặp nhà tôi tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng
Nam. Cô ấy tên là Nguyễn Thị Đàm Liên. Lần đầu chúng tôi biết nhau là trong một cuộc họp của địa phương. Sau mấy năm xa quê, nghe tiếng nói “xứ Nghệ” từ một cô gái trẻ, duyên dáng trên đất Quảng
Nam thân thương làm sao. Hoàn cảnh của người đồng hương lúc ấy càng làm tôi quý mến hơn: Liên kém tôi 5 tuổi, quê Nam Dương, huyện Nam Đàn, Nghệ An. Lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Anh trai Liên là Nguyễn Tiềm, sớm tham gia cách mạng. Đang học cấp 2 ở trường Quốc học Vinh, Nghệ An, anh được bầu làm Bí thư tổng sinh hội Nghệ An. Hồi ấy ở Nghệ An có Bí thư tổng công hội, Bí thư tổng nông hội và Bí thư tổng sinh hội. Tháng 10-1930, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất họp tại làng Đồng Xuân (nay là xã Xuân Tường, huyện Thanh Chương) bầu Nguyễn Tiềm làm bí thư Tỉnh ủy. Năm 1931, anh được bổ sung vào Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ phụ trách công tác tuyên truyền. Năm 1932 bị bắt và bị địch giết hại tại nhà tù Lao Bảo ngày 18-10-1932, lúc này anh đúng 22 tuổi. Trước đó, ngày 29-7-1929, tòa án Nam Triều-Nghệ An xử án 45 nhân vật quan trọng, kết án tử hình vắng mặt 7 người: “Trần Văn Cung, Nguyễn Tiềm, Vương Thúc Oánh, Nguyễn Ái Quốc, Phan Tái, Lê Duy Điếm và Trần Văn Phú (bốn người sau đã ra nước ngoài).
 |
Vợ chồng đồng chí Lê Hữu Đức và Nguyễn Thị Đàm Liên (ảnh chụp năm 1950). |
Sớm giác ngộ cách mạng, đang học năm thứ tư trường Đồng Khánh ở Huế, Liên về quê tham gia giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và được cử làm Bí thư phụ nữ cứu quốc xã Nam Dương. Năm 1946, Liên làm Bí thư phụ nữ huyện Nam Đàn rồi hăng hái xung phong lên đường Nam tiến. Vào đến Quảng Nam, Liên được bổ sung vào Ban chấp hành phụ nữ huyện Đại Lộc, Bí thư đoàn thanh niên cứu quốc huyện. Hai người tuổi trẻ cùng quê, sống xa nhà, gặp nhau trên bước đường công tác, thế rồi tình yêu đến lúc nào không biết. Hạnh phúc biết bao, sau những trận chiến đấu, tôi gặp Liên, được gần nhau kể cho nhau nghe chuyện vui buồn!
Tháng 8-1948, Liên được điều về công tác phụ nữ và nữ thanh niên tỉnh Quảng Nam làm công tác Đảng đoàn phụ nữ và là Ủy viên Ban chấp hành tỉnh đoàn rồi về công tác phụ nữ Liên khu 5 (Trưởng ban nữ thanh niên Liên khu 5). Yêu nhau 3 năm, nhưng cũng phải giữ kín nên chúng tôi thường viết thư cho nhau bằng tiếng Pháp. Cho đến tháng 5-1950 mới làm lễ cưới, do tỉnh hội phụ nữ Quảng Nam tổ chức ở Tam Kỳ (Quảng Nam). Thật là oái oăm, những năm đầu kháng chiến, cơ quan đóng trong nhà dân chúng tôi không dám phiền, nên không có phòng cưới. Đêm tân hôn, khi mọi người ra về, chúng tôi ngồi bên nhau và sánh vai sải bộ khắp thị xã Tam Kỳ cho tới sáng rồi bịn rịn chia tay, lại mỗi người về một ngả và dăm ba tháng mới được gặp nhau một lần, như vợ chồng Ngâu. Gia đình tốt bụng thì cho mảnh chiếu hay chiếc nong phơi lúa nằm ngoài vườn, còn không thì đám ruộng mới gặt xong, hay bãi tha ma, hoặc điếm canh bỏ trống, gò đồi... Chúng tôi vẫn vui vẻ, ấm cúng, vượt qua mọi trở ngại “vặt”. Nhiều anh em ở miền Bắc vào lập gia đình với các chị em tại chỗ thì có hậu phương vững chắc, an toàn, đầy đủ: có tổ ấm đúng nghĩa, sinh con đã có ông bà, cô bác đùm bọc. Riêng chúng tôi, có lẽ do máu tiểu tư sản đặc sệt nên thiên về tình cảm dịu dàng, tế nhị, sống nội tâm, hiểu và thương nhau là chính. Cuộc sống Ngưu Lang-Chức Nữ kéo dài đến giữa năm 1953, cả hai chúng tôi đều được ra miền Bắc, về lại quê nhà, tôi ra Việt Bắc về công tác ở Cục Tác chiến-Bộ Tổng tham mưu, còn Liên nhận công tác ở cơ quan phụ nữ Quân khu 4 cũ".
Ông lục tìm, đưa cho tôi xem tấm ảnh vợ chồng ông chụp gần sáu mươi năm trước (xem ảnh). Ảnh hai mái đầu trẻ tuổi ngả vào nhau, tràn đầy hạnh phúc, hướng về phía trước trên gương mặt rạng ngời. Tôi cứ ngỡ là bức ảnh mới chụp không lâu. Giấy bóng đẹp, nước ảnh còn tươi mới. Thì ra, ảnh ông chụp lại với dòng chữ ghi phía sau: “Sau ngày cưới 1-5-1950, tại thị trấn Chợ Chùa, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, vùng tự do Liên khu 5”.
“Tấm ảnh cưới ấy theo tôi suốt hai cuộc kháng chiến như một lá bùa hộ mệnh, giúp tôi vượt qua mọi gian nguy" - ông nói:
Phải đến giữa năm 1956, chúng tôi mới gặp nhau tại Hà Nội, Liên được đưa ra Trung ương Hội phụ nữ và giữa năm 1957 được Trung ương Hội cử đi học lớp giảng viên lý luận hai năm tại trường Nguyễn Ái Quốc I, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Vốn thông thạo tiếng Pháp, Liên cố gắng tự học thêm Nga và Anh văn đạt trình độ trung cấp. Liên được về lại cơ quan Trung ương Hội, công tác ở Ban đối ngoại.
Năm 1965, chúng tôi đã có ba cháu gái khỏe mạnh, ngoan, xinh và đều học khá. Sau nhiều lần đề nghị, tôi được cấp trên chấp thuận cho trở lại chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên. Công việc gia đình một mình Liên gánh vác. Không quân Mỹ đánh vào Hà Nội, vừa phải sơ tán theo cơ quan vừa phải nuôi ba con và mẹ chồng, tôi biết Liên vất vả vô cùng. Nơi chiến trường xa, thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được thư Liên và các con.
Thương Liên và các con, tôi chỉ mong ngày gặp lại. Tôi thường tưởng tượng chiến thắng trở về được ôm Liên và các con vào lòng cho thỏa những ngày dài mong đợi. Nhưng rồi, thật trớ trêu, điều tôi không mong lại đến. Năm 1968, sau chiến dịch, chúng tôi về sư đoàn bộ tổng kết. Hồi đó, tôi là sư phó kiêm tham mưu trưởng Sư đoàn 1. Đang chuyện trò vui vẻ với anh em đơn vị thì Sư đoàn trưởng Vương Tuấn Kiệt và Chính ủy sư đoàn Hoàng Thế Thiện cho mời tôi đến. Nhìn nét mặt các anh hơi buồn, trong tôi linh cảm có điều gì hệ trọng. Không phải đợi lâu, sau vài lời động viên, hai anh thông báo: “Theo bức điện khẩn của đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào, chị Liên đã mất vì một cơn bệnh hiểm nghèo”. Tôi nghe như sét đánh, không tin ở tai mình nữa. Thực ra, sức khỏe của Liên vốn không tốt, lại cố gắng nhiều quá nên ngã gục ngay trên bàn làm việc. Mọi người chia buồn cùng tôi. Bên ngoài, tôi cố trấn tĩnh, sợ ảnh hưởng tư tưởng anh em, nhưng suốt gần một năm trời, tôi không sao chợp được mắt. Đặt mình xuống là hình ảnh Liên và gia đình lại hiện lên với biết bao nỗi lo lắng. Biết là tổ chức sẽ thu xếp cho các con tôi được tiếp tục ăn học chu đáo, nhưng mất Liên là tổn thất không gì bù đắp được với tôi, mẹ già và các con còn thơ dại. Sau này tôi mới biết, khi Liên qua đời, cháu Hà, con đầu lòng, học lớp 10 ở trường miền Nam Đông Triều, còn hai cháu Lan, Nga học cấp 2 cùng trường miền Nam Thái Bình, huyện Phù Dực.
Kể từ khi quen biết nhau cho đến ngày Liên qua đời là 20 năm, nhưng có lẽ chỉ chung sống cùng nhau được mấy năm ngắn ngủi. Tôi không có điều kiện chăm sóc Liên, nhất là những ngày ốm đau, không được gặp Liên khi từ giã cõi đời. Bây giờ nhìn các con trưởng thành, tôi càng biết ơn Liên, vẫn thương nhớ Liên, vẫn không sao nguôi nỗi nhớ một thời tuổi trẻ Nam tiến gian khổ mà hào hùng".
Tình yêu người lính trong những năm chiến tranh thật là đẹp. Có gian khổ, hy sinh nhưng đằm thắm thủy chung. Cô nữ sinh Đồng Khánh, chiến sĩ Nam tiến Nguyễn Thị Đàm Liên không còn nữa nhưng trong lòng Trung tướng Lê Hữu Đức, người con gái ấy, tình yêu ấy vẫn còn mãi, đi suốt cuộc đời ông.
Năm 1973, sau hai năm ra miền Bắc, ông xây dựng gia đình với cô Hiệu trưởng trường đào tạo cô giáo trung cấp ngành mầm non Phạm Thị Sửu, sau đó là Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cả hai ông bà đã về hưu, sống hạnh phúc trong một ngôi nhà nhỏ, một hẻm nhỏ, có bốn nhân khẩu: cụ ông, cụ bà, cô con gái út rất xinh và cháu ngoại cũng rất xinh, ngoan và học giỏi. Còn các con, cháu nội ngoại đều ở xa, phần lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh, đều có cuộc sống lành mạnh, tiến bộ. Ngày Tết và những ngày vui đều “phôn” chúc mừng ông bà rất đều đặn và nồng hậu.
NGỌC PHÚ