Đầu năm 1970, Phạm Kiều Đa (sinh năm 1947, sau này, ông giữ nhiều cương vị quan trọng: Ủy viên Thường vụ Thành ủy, Phó chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, Quyền Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng)... rời căn cứ, mang theo mật lệnh về đứng chân tại Hòa Xuân để xây dựng “lõm chính trị”, tạo bàn đạp để phát triển lực lượng biệt động cánh Đông. Lúc này, xã Hòa Xuân là địa bàn nằm sâu trong hậu cứ của địch, mọi hoạt động của cán bộ đều phải bí mật. Dân vẫn tin Đảng, tin cách mạng, nhưng trước sự khủng bố tàn khốc của địch, nhiều gia đình đã có ý lo sợ bị báo thù. Do đó, sau khi nghiên cứu, tìm hiểu tình hình, anh quyết định tiếp cận gia đình ông Ba Gừng (tức Phạm Bê) ở thôn Cổ Mân, xã Hòa Xuân. Bằng khả năng thuyết phục của một cán bộ đã từng nhiều năm hoạt động trong phong trào thanh niên, học sinh thành phố, Phạm Kiều Đa được gia đình đồng ý cho đào hầm bí mật, nuôi dưỡng trong nhà. Từ một gia đình ban đầu ấy, anh đã phát triển hơn 50 gia đình nòng cốt thuần khiết. Trong đó, có 1/3 số gia đình cơ sở ở trong nhà, ngoài vườn có hầm bí mật, buồng kín, gác xép để sẵn sàng che chở, nuôi giấu cán bộ. Để làm nơi liên lạc và tổ chức học tập, huấn luyện bí mật và giấu quân cho lực lượng biệt động, anh chọn những gia đình nòng cốt được anh tin tưởng nhất là: Bà Kiều Thị Trà, bà Dạng, bà Hưng Điền...

leftcenterrightdel
  Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Kiều Đa.

Dựa vào “lõm chính trị” Hòa Xuân, bằng phương pháp “nứt nhánh”, anh xây dựng và phát triển cơ sở vào sâu trong nội thành, tập trung ở các phường: Khuê Trung, Hòa Cường, Bình Thuận, Bình Hiên, Chính Gián... Kết quả, 11 cơ sở nội thành là nơi trú quân, cất giấu vũ khí, đạn dược, nơi liên lạc giữa bên ngoài với bên trong, giữa chỉ huy với biệt động, tạo nên mạng lưới bố trí lực lượng giữa lòng thành phố vô vàn hiểm nguy mà địch cũng không thể ngờ được. 

Đứng chân trong vùng địch, dù được gia đình cơ sở che chở, nhưng không ít lần Phạm Kiều Đa đối mặt với nguy hiểm trong gang tấc, chịu nhiều gian khổ, ác liệt khôn lường. Hòa Xuân là vùng trũng, đất cát nên mỗi khi đến mùa mưa nước trong hầm bí mật lại dâng lên. Hơi nước lưu cữu cộng với hơi đất ẩm mốc làm cho sức khỏe của anh giảm sút nghiêm trọng, nước da xanh bủng, cơ thể gầy tong teo. Mùa mưa nằm hầm ngập nước, mùa hạ không thấy mặt trời, 7 giờ tối lên bám địch, 3 giờ sáng chui xuống hầm bí mật. Cuộc sống của người cán bộ đi xây dựng cơ sở căng như dây đàn. Một số cán bộ Khu 3 Hòa Vang và lãnh đạo Hòa Đa không chịu nổi gian khổ, lập trường không kiên định đã nhảy sang hàng ngũ địch. Đối đầu với địch đã khó, đối đầu với những người đã từng cùng chung chiến tuyến càng khó vạn phần. Số cán bộ chiêu hồi gây khó khăn rất lớn trong việc trụ bám trong “lõm chính trị”, buộc anh phải có biện pháp ngăn chặn kịp thời để tránh tổn thất cho cách mạng, cho nhân dân.

Nhờ những nỗ lực của Chỉ huy trưởng cánh Đông Phạm Kiều Đa, ta đã phát triển và xây dựng được hơn 100 cán bộ, chiến sĩ biệt động sống và chiến đấu trong lòng thành phố, được tổ chức thành 6 đội. Mỗi đội có một giao liên hợp pháp riêng, người nào biết nhiệm vụ của người đó, thậm chí là không biết chỉ huy cấp trên là ai. Bên cạnh các đội, Phạm Kiều Đa còn phát triển 9 tổ biệt động độc lập, 12 biệt động đơn tuyến, nội tuyến. Tất cả đều được tổ chức theo phương thức bí mật, ngăn cách, linh hoạt.

Trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là giai đoạn 1970-1975, biệt động cánh Đông Đà Nẵng có số lượng tương đối lớn, tinh thần chiến đấu dũng cảm, chất lượng công tác và hiệu suất chiến đấu cao, mở nhiều trận đánh ngay giữa căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, biết vận dụng linh hoạt phương thức hoạt động, hình thức tác chiến. Tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng (tháng 3-1975), trên cương vị Phó quận đội trưởng quận Nhất TP Đà Nẵng, Chỉ huy trưởng lực lượng biệt động cánh Đông Đà Nẵng, Phạm Kiều Đa chỉ huy lực lượng biệt động thọc sâu đánh chiếm các cơ quan đầu não của Mỹ-ngụy tại Đà Nẵng, góp phần giải phóng Đà Nẵng vào ngày 29-3-1975. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ biệt động đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công các hạng. Cá nhân đồng chí Phạm Kiều Đa được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Bài và ảnh: NGUYỄN AN KHÁNH