Tháng 12-1964, tôi được điều về Tiểu đoàn 929, Quân khu 4, lúc bấy giờ đang hoạt động chiến đấu ở tỉnh Savannakhet nhằm giữ vững vùng giải phóng của nước bạn Lào, đồng thời bảo vệ hành lang phía tây của tuyến vận tải chiến lược 559. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là anh Hoàng Nhiên, quê ở Diễn Thịnh, Diễn Châu, Nghệ An. Chính trị viên tiểu đoàn là anh Nguyễn Khuốc, quê ở Hiền Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

Đầu tháng 4-1965, Tiểu đoàn 929 tham gia vận chuyển lương thực, làm đường và kéo pháo vào chuẩn bị đánh lớn ở Huội Mua. Trung đội chúng tôi được giao nhiệm vụ kéo một khẩu pháo 105mm từ phía đông  Mường Phìn vào gần Sê Con Cam. Tuy không vượt dốc, trèo đèo như người ta vẫn nói về việc kéo pháo vào, kéo pháo ra ở Điện Biên Phủ trước đây, nhưng quả thật kéo pháo rất mệt. Người mỏi nhừ, tay phồng rộp. Những ngày kéo pháo vào trận địa, chúng tôi vui và tin tưởng. Vậy là trong trận chiến đấu tới, bộ binh chúng tôi được pháo binh chi viện. Pháo 105mm sẽ bắn sập công sự và tiêu hao sinh lực địch, uy hiếp găm quân địch xuống, tạo điều kiện cho bộ binh tấn công, hoặc là chế áp pháo binh địch, bắt chúng phải câm họng.

Hồi đó, tôi thấy cả ông Xổm Xắc, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội Pathet Lào (sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lào) thường xuyên xuống thăm hỏi, động viên chúng tôi trong khi kéo pháo. Ông là người Lào Thưng, hoạt động chủ yếu ở Trung Hạ Lào. Các anh cán bộ trong tiểu đoàn chúng tôi rất thân thiết với ông, coi ông như người nhà, người cùng đơn vị. Ông và đại đội chủ lực tỉnh Savannakhet đã cùng ăn, cùng ở, cùng hoạt động, cùng sát cánh chiến đấu trên một chiến hào với bộ đội tình nguyện Việt Nam.

leftcenterrightdel

Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào Chansamon Chanyalat (thứ tư, từ phải sang) tiếp thân mật đoàn cựu chiến binh Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào. Ảnh: MẠNH NGUYỄN

 

Theo thông báo của cấp trên, của cơ sở bạn và báo cáo của trinh sát tiểu đoàn, đồn Huội Mua của địch đóng trên một quả đồi thấp, có công sự gỗ đất với mấy lớp lô cốt, được nối với nhau bằng chiến hào và giao thông hào; có hai lớp hàng rào thép gai và bên ngoài là một lớp cây rừng cưa đổ bao quanh làm chướng ngại vật; lực lượng địch có một đại đội tăng cường. Khi Huội Mua bị tấn công, pháo binh địch ở Pà Lan, Đồng Hến sẽ bắn chi viện.

Tiểu đoàn 929 chúng tôi là lực lượng chủ yếu tấn công vào đồn Huội Mua. Cùng phối hợp tác chiến vòng ngoài có đơn vị chủ lực của tỉnh Savannakhet. Theo phương án tác chiến của tiểu đoàn được cấp trên thông qua, Đại đội 1 là lực lượng chủ công đánh vào hướng chủ yếu, Đại đội 2 chúng tôi đánh vào hướng thứ yếu, Đại đội 3 làm thê đội 2. Đại đội 4 là đơn vị hỏa lực trợ chiến.

5 giờ chiều 15-4-1965, Tiểu đoàn 929 xuất kích vào chiếm lĩnh vị trí tập kết. Dưới nắng chiều, cả đoàn quân vòng lá ngụy trang phấp phới, khí thế rất hùng dũng. Mấy anh Điện ảnh Quân đội trực tiếp quay phim. Máy trên vai chạy xè xè, ghi hình bộ đội hành quân và thực hành chiến đấu. Trước đó, các anh cũng đã ghi hình chúng tôi kéo pháo vào trận địa.

Đúng 6 giờ chiều, pháo 105mm và cối 120mm, đặt cách trận địa chừng 5km, đồng loạt khai hỏa. Lần đầu tiên được nghe tiếng nổ đầu nòng, tiếng đạn rít trên không và tiếng nổ giòn to đanh, rất trúng đích, chúng tôi mừng vô cùng.

Chúng tôi vào đến vị trí xuất phát tấn công, cách đồn địch chừng 200m, dừng lại dùng xẻng đào hố cá nhân. Pháo binh vẫn dồn dập nã đạn. Trong đồn, nhiều đám cháy bốc lên cao. Cả một vùng rực sáng. Tiểu đội trưởng Đinh Xuân Bài bảo tôi chú ý giữ khoảng cách kẻo lạc. Mọi người trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Chừng 10 phút pháo chuyển làn, từ phía sau, hai phát pháo hiệu đỏ rực vút lên không trung. Trung đội trưởng Lê Đôn Quý hô các tiểu đội vượt qua các hàng rào, đánh thẳng vào tiền duyên địch. Chúng tôi vừa vượt qua hàng rào bằng cây khô, băng qua hai lớp hàng rào thép gai, cách chiến hào tiền duyên của địch chừng 100m thì các họng súng trong đồn bắn tới tấp vào đội hình. Vừa nhô lên có mấy chiến sĩ bị trúng đạn, gục tại chỗ. Trong giây lát, tất cả các hướng tấn công đều bị chững lại.

Anh Bài hô:

- Liệu bắn vào lô cốt đầu cầu!

Lập tức, chiến sĩ Liệu phóng quả B40 mà không trúng. Chiến sĩ Các xả tiếp một tràng trung liên vào đó cũng chẳng ăn thua. Từ dưới nhìn lên, các hỏa điểm của địch bắn ra đỏ rực, đạn bay chíu chíu, cày xới xung quanh chúng tôi.

Từ phía sau đội hình, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Dương điều khẩu đội ĐKZ 75mm được tiểu đoàn tăng cường cho đại đội, đặt ngắm bắn trực tiếp mấy phát liền. Vừa bắn xong, anh lao lên, hô lớn:

- Nào các đồng chí, dừng lại đây là chết, tất cả xung phong!

Đáp lời anh, cả Trung đội 2 chúng tôi vừa chạy thốc lên vừa cặp súng bắn trong làn đạn địch. Anh Liệu bắn tiếp một quả B40, chúng tôi nhìn rõ quả đạn lao vút cắm phập vào lô cốt đầu cầu nổ rầm lên, khẩu đại liên địch bị tiêu diệt. Cả trung đội lao lên chiếm được chiến hào ngoài cùng.

Nhìn lại đội hình, tôi đã thấy thưa dần. Theo lệnh anh Lê Đôn Quý, các tiểu đội xốc lại lực lượng, bám chắc tiền duyên đánh lấn vào trong. Tiếng lựu đạn nổ chát chúa. Tiếng súng bộ binh các loại nổ liên hồi, đanh rát. Anh Bài chỉ huy chúng tôi đánh thốc vào sườn bên phải. Tôi ném hai quả lựu đạn, bắn liền cả kẹp đạn CKC.

Trong vòng một giờ đồng hồ, từ chiến hào tiền duyên địch, đại đội chúng tôi đánh chiếm được mỏm đồi thấp phía ngoài. Cả trận địa mịt mù khói đạn, khét lẹt, cay xè. Từ đây phát triển vào tung thâm phải qua một cái yên ngựa. Đồi phía trong cao hơn. Từ trên cao, hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ, đạn bay xối xả, chi chít. Thêm vào đó là các loại súng phóng lựu, cối 81mm của địch bắn ra dữ dội. Giằng co mãi hàng tiếng đồng hồ không sao dứt điểm được. Mấy lần đại đội tổ chức tấn công đều bị đánh bật lại do bị tổn thất quá nhiều. Anh Dương không chịu lùi, trực tiếp dẫn Trung đội 1 đánh thốc lên lần nữa, lại cũng bị thương vong quá nửa. Bản thân anh Dương bị thương vào đầu và chân, anh em phải cõng ra.

Phía bên kia, Đại đội 1 là hướng tấn công chủ yếu của tiểu đoàn cũng gặp khó khăn, chỉ đánh chiếm được non một nửa trận địa địch, không dứt điểm được. Số địch còn lại co cụm trong công sự chống trả quyết liệt, chờ viện binh. Nếu tình trạng này kéo dài, trời sáng, địch sẽ cho máy bay đến oanh kích và cho bộ binh đến chi viện. Lệnh của trên cho tiểu đoàn rút lui.

Đề phòng địch phản công, tiểu đoàn và các đại đội bố trí thực hành rút theo kiểu cuốn chiếu. Đưa thương binh, liệt sĩ ra trước, các trung đội lần lượt rút dần ra. Đến 7 giờ sáng hôm sau, cả Tiểu đoàn 929 về đến hậu cứ. Trong trận này, mấy người bạn của tôi đã hy sinh. Trong đó, tôi thương nhất là Cồng, 18 tuổi, cao to, trắng trẻo, đẹp trai, quê ở Tĩnh Gia, Thanh Hóa, bị thương nặng mà vẫn tỉnh táo, nhưng khiêng ra đến được nửa đường về hậu cứ thì hy sinh vì mất quá nhiều máu. Trên đường ra, hai chiếc máy bay loại cánh quạt T-28 của địch quần thảo bắn phá dữ dội nhưng cách đội hình hàng mấy trăm mét, không ai bị thương vong.

Hơn nửa thế kỷ đã qua, trở lại đất nước triệu voi, kỷ niệm xưa và hiện thực nay quyện vào nhau trong tâm trí tôi. Điều cốt tủy đọng lại trong tôi là tấm lòng thủy chung son sắt của các bạn Lào. Trải qua mấy chục năm, trong điều kiện có nhiều đổi thay nhưng tình nghĩa giữa những người cùng chung chiến hào năm xưa vẫn nguyên vẹn, đong đầy. Các buổi gặp gỡ tiếp xúc giữa ta và bạn toát lên một điều: Liên minh chiến đấu Việt-Lào là một tất yếu lịch sử khách quan có tính quy luật. Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt-Lào là tài sản tinh thần vô giá của hai dân tộc, hai quân đội. Điều hệ trọng này phải được mãi mãi trân trọng, giữ gìn, lưu truyền, tiếp nối trong các thế hệ mai sau.

Trung tướng NGUYỄN MẠNH ĐẨU