Thời gian này là giữa mùa mưa, thường ít có chiến sự xảy ra nên phần lớn anh em đều ở nhà để viết bài và học tập chính trị. Tuy nhiên cũng có lúc anh em phải đi công tác đột xuất.
Một hôm, tôi đang hí hoáy viết bài thì anh Phan Cẩn-phụ trách Ban biên tập của báo ở vòng trong ra, phân công tôi và Tô Tấn đi công tác gấp. Anh Phan Cẩn nói: “Hiện nay, tân binh của ta ở ngoài Bắc vào rất đông, nhưng nghe tin anh em bị sốt rét, phải đi nằm viện quá nhiều. Bây giờ Đình Thịnh và Tô Tấn ra Bệnh viện K50 xem tình hình thế nào. Cố gắng viết bài động viên anh em yên tâm điều trị bệnh và cổ vũ y sĩ, bác sĩ khắc phục khó khăn, chăm sóc anh em chu đáo để họ sớm được ra viện. Viết được bài thì gửi về ngay để kịp đăng số tới”.
Thế là tôi và Tô Tấn khoác ba lô đi ngay trưa hôm đó. Mặc dù phải đi như chạy nhưng cũng mất hơn 3 ngày mới tới Bệnh viện K50. Đây là một bệnh viện quân y dã chiến ở sát biên giới Campuchia. Tuy ở trong rừng nhưng quy mô cũng khá rộng. Các lán trại đều làm bằng cây rừng và lợp lá trung quân. Bệnh viện có hàng chục lán rộng mà lán nào thương binh, bệnh binh cũng mắc võng nằm la liệt. Đa số anh em bị sốt rét, một số ít bị bệnh đường ruột vì dọc đường hành quân ăn uống nước suối, không bảo đảm vệ sinh.
    |
 |
Đồng chí Tô Tấn (ngồi thứ ba, từ trái sang) cùng đồng đội ở A14, tháng 6-1971. Ảnh do tác giả cung cấp |
Nhìn người nào cũng xanh xao vàng vọt, môi thâm vì sốt rét, tôi rất thông cảm, vì chính tôi khi mới vào chiến trường cũng bị như thế. Tôi còn bị sốt rét ác tính, hôn mê mấy ngày, suýt toi mạng. Bây giờ nghĩ lại càng thấy thương những chiến sĩ trẻ, chưa xa nhà bao giờ, nay vì nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước phải vượt Trường Sơn vào tới đây là quý lắm rồi. Vì thế cần phải có sự động viên kịp thời để anh em yên tâm điều trị bệnh tật.
Tôi và Tô Tấn đều xác định được yêu cầu đó nên khi tới bệnh viện, chúng tôi gặp ngay Ban giám đốc bệnh viện xin ý kiến, trao đổi để biết một số thông tin khái quát về tình hình bệnh nhân, công tác chăm sóc, điều trị của y sĩ, bác sĩ nhằm tìm ra những gương sáng về tinh thần phục vụ thương binh, bệnh binh. Ban giám đốc bệnh viện, đặc biệt là đồng chí Hai Thạch, Bí thư Đảng ủy bệnh viện hết sức giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để chúng tôi tác nghiệp.
Trong khi chúng tôi đang làm nhiệm vụ thì được tin đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, đến thăm bệnh viện để động viên anh em thương binh, bệnh binh và các y sĩ, bác sĩ. Đồng chí Nguyễn Thị Định là một cán bộ cấp cao của Bộ chỉ huy Miền, đồng thời là Ủy viên Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng rất giản dị, sâu sát quần chúng, rất chân thành và cởi mở. Đồng chí đến thăm tất cả các lán trại, ân cần hỏi thăm từng chiến sĩ, nhẹ nhàng tình cảm như một người chị ruột đến thăm những người em trong gia đình. Đồng chí rất khen ngợi và biểu dương tập thể cán bộ, y sĩ, bác sĩ của bệnh viện đã khắc phục mọi khó khăn để phục vụ bệnh nhân. Đặc biệt, bệnh viện đã có sáng kiến thành lập một xưởng sản xuất, tự điều chế được hàng nghìn lít huyết thanh đẳng trương bằng đường trắng để chữa trị và bồi dưỡng cho bệnh nhân ngay trong rừng. Đó là một cố gắng lớn của bệnh viện trong hoàn cảnh chiến tranh. Nhờ đó đã góp phần cứu chữa bệnh nhân kịp thời và tăng cường phục hồi sức khỏe cho nhiều chiến sĩ sớm được ra viện.
Tôi và Tô Tấn thu thập nhanh tài liệu và phân công nhau viết bài. Tôi viết bài tường thuật về chuyến thăm bệnh viện của đồng chí Nguyễn Thị Định, thể hiện rõ sự quan tâm của Bộ chỉ huy Miền, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với các tân binh mới được bổ sung từ miền Bắc vào. Còn Tô Tấn viết về cô Hồng Vân-một du kích Củ Chi, sau trở thành y tá của Bệnh viện K50, mặc dù bị thương cụt mất một bàn chân vẫn khắc phục khó khăn, hết lòng phục vụ thương binh, bệnh binh. Viết xong, chúng tôi đã thông qua Ban giám đốc bệnh viện để các đồng chí ấy góp ý. Rất may, cả hai bài đều được lãnh đạo bệnh viện nhất trí tán thành.
Để kịp thời gian như anh Phan Cẩn đã dặn, chúng tôi phải cấp tốc mang bài về. Suốt hai ngày đội mưa, đi không dám nghỉ, gần tối hôm sau chúng tôi mới về tới khu vực của Bộ chỉ huy Miền. Chúng tôi định cắt rừng về cho nhanh nhưng lại lạc vào đúng khu vực thuộc Cục Tham mưu quản lý. Các đồng chí bảo vệ nhất định không cho đi qua (vì sợ lộ bí mật căn cứ). Trời đã tối sẫm, chúng tôi nói khó và xin ngủ nhờ một tối ở đây. Đồng chí trạm trưởng không những không cho nghỉ nhờ còn gay gắt quát mắng: “Các anh đi ngay khỏi khu vực này, ông nào cũng không được ở đây!”.
Tôi và Tô Tấn đành phải lủi thủi khoác ba lô ra khỏi trạm. Đêm đó chúng tôi phải uống nước suối, nhịn đói, mắc võng ngủ ngay bên cạnh suối. 5 giờ sáng hôm sau, chúng tôi đã dậy, tính toán tìm đường về sao cho kịp thời gian. Định cắt chéo ngoài khu vực của trạm bảo vệ Cục Tham mưu nhưng khi vào rừng gặp rất nhiều bụi gai rậm, chúng tôi phải cắt rừng đi lượn vòng vèo, không ngờ loanh quanh một hồi lại vào đúng trạm bảo vệ của Cục Tham mưu tối qua.
Lúc đó khoảng hơn 8 giờ, một đồng chí chiến sĩ gặp chúng tôi vẻ thông cảm:
- Thế từ tối qua đến giờ, các anh vẫn chưa tìm được lối về à?
Tôi vội trả lời:
- Chúng mình cắt rừng mãi mà không ra, không ngờ lại lạc vào đây.
- Tối qua các anh ngủ ở đâu?-đồng chí chiến sĩ hỏi tiếp.
- Chúng mình đành phải ngủ đại bên suối.
- Các anh chắc chưa ăn gì, thôi vào đây còn ít cơm, tôi lấy cho mà ăn, rồi hãy đi.
Tôi đã ngồi vào bàn nhưng Tô Tấn còn thủng thẳng tìm chỗ đặt ba lô, chưa kịp bỏ mũ cối ra thì đồng chí trạm trưởng chạy tới, mặt hầm hầm:
- Tôi bảo các anh phải đi ngay khỏi đây từ tối hôm qua rồi kia mà, sao giờ vẫn còn ở đây?
Tôi nhẹ nhàng trả lời: “Anh ơi trời tối quá, chúng tôi không tìm ra đường nên mới lạc trở lại đây. Thôi chúng tôi đã lỡ rồi, chúng tôi xin lỗi các anh, các anh thông cảm cho!”.
- Các anh chỉ nói xạo, có mỗi một con đường mà còn lạc. Lạc... lạc... cái gì!
Tô Tấn đã tức sẵn từ nãy, giờ lại nghe trạm trưởng bảo chúng tôi nói xạo, càng tức. Kìm nén không được, Tô Tấn liền vênh mặt đỏ bừng hướng về phía trạm trưởng buông thõng một câu: “Rừng thì thiếu cha gì đường!” làm trạm trưởng càng gay gắt thêm:
- Ra ngay! Các anh ra ngay khỏi đây. Chỉ có một con đường mà còn cãi gì?
Tức quá, Tô Tấn gằn giọng nhại lại câu nói của trạm trưởng:
- Quân... Giải... phóng... chỉ... có... một... con... đường! Vậy đấy!
Tôi ngồi ghế nhìn Tô Tấn đang nói, rung rung cả chiếc mũ cối đang đội trên đầu. Tôi cảm thấy thái độ của đồng chí trạm trưởng quá bức xúc. Mặc dù chúng tôi đã xin lỗi nhưng anh ta vẫn làm găng, ép chúng tôi ra ngay khỏi trạm...
Hôm đó về nộp bài, rất may cả bài của tôi và Tô Tấn đều kịp đăng số báo mới. Khi anh Phú Bằng từ vòng trong mang báo ra cho anh em A14, tôi kể lại câu chuyện trên. Rừng thì có biết bao nhiêu con đường nhưng đánh Mỹ thì Quân Giải phóng chỉ có một con đường là rất đúng. Mới nghe qua, câu nói của Tô Tấn như vô tình nhưng nghĩ lại cũng thật có ý nghĩa. Từ đó, A14 coi câu nói của Tô Tấn: “Quân Giải phóng chỉ có một con đường” là câu nói nằm lòng. Dù khó khăn thách thức như thế nào cũng chỉ có một con đường tiến lên dưới cờ Đảng quang vinh. Đánh Mỹ, không có con đường nào khác!
ĐÌNH THỊNH (Nguyên phóng viên Báo Quân Giải phóng)