QĐND - Đại tướng Nguyễn Quyết, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là Bí thư Thành ủy, Ủy viên quân sự trong Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội. 66 năm sau ngày diễn ra cuộc Cách mạng mùa Thu, câu chuyện và bài học lịch sử như vẫn còn tươi mới và cháy bỏng trong tâm thức vị Đại tướng tuổi 90…
Cuộc họp trắng đêm và câu chuyện về thời cơ khởi nghĩa
PV: Thưa ông, nghiên cứu lịch sử chúng tôi thấy rằng, trước khi ông về Hà Nội nhận cương vị Bí thư Thành ủy thì tất cả các vị lãnh đạo tiền nhiệm của ông đều đã bị lộ, bị địch bắt hoặc xử bắn. Ông và Thành ủy đã có phương thức gì đối phó với kẻ thù để tồn tại và lãnh đạo cách mạng?
Đại tướng Nguyễn Quyết: Từ năm 1930 đến cuối năm 1943, Hà Nội đã có 17 đảng viên giữ cương vị Bí thư Thành ủy nhưng do địch khủng bố gắt gao nên đều không trụ được. Đầu năm 1943, Hà Nội không còn Thành ủy. Đến giữa năm đó, anh Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng về kiểm tra Hà Nội nhưng không lâu thì bị địch bắt và đến năm sau chúng xử bắn anh. Trong bối cảnh đó, Trung ương cử tôi cùng hai anh Lê Quang Đạo và Vũ Quý về tái lập Thành ủy Hà Nội, do anh Đạo làm Bí thư để khôi phục phong trào và đón thời cơ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Đến cuối năm 1944, do anh Đạo bị lộ nên Trung ương điều đi nơi khác và cử tôi thay. Phải nói là tình hình lúc này rất căng. Bài toán đau đầu nhất là phải tìm cách bảo toàn được lực lượng để lãnh đạo phong trào. Sau khi khảo sát tình hình, do Thành ủy chưa có căn cứ an toàn ở ngoại thành nên tôi đã đề nghị Trung ương giao lại vùng ngoại thành cho Thành ủy để Hà Nội xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ. Đây sẽ là chỗ đứng chân, “điểm đỗ” an toàn của cấp ủy. Trung ương đồng ý và sau một thời gian, tại đây chúng ta đã có căn cứ đứng chân an toàn.
 |
Đại tướng Nguyễn Quyết. Ảnh: Xuân Bình. |
Vấn đề tiếp theo là phải xây dựng lực lượng mạnh, đặc biệt là ở nội thành. Nếu không có lực lượng mạnh thì sớm muộn cũng bị kẻ thù tiêu diệt. Thành ủy chỉ đạo thành lập 3 đội vũ trang tuyên truyền ở nội thành gồm 2 đội tuyên truyền và một đội vũ trang trừ gian, diệt ác. Đặc biệt sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), địch đã suy yếu. Nhất là bọn ngụy quân, ngụy quyền bị dao động mạnh. Thành ủy chủ trương “Việt Minh hóa nội thành”, “Việt Minh hóa” cả một bộ phận ngụy quân, ngụy quyền đang mất phương hướng. Lúc này, ta không chỉ có lực lượng chính trị của quần chúng, lực lượng tự vệ, vũ trang mà còn tranh thủ xây dựng lực lượng ngay trong hàng ngũ địch…
PV: Với tình hình ấy, có thể nói, thời cơ Tổng khởi nghĩa đã xuất hiện một cách rõ ràng?
Đại tướng Nguyễn Quyết: Đúng vậy. Nhất là vào ngày 15-8, phát xít chính thức đầu hàng Đồng minh. Nội bộ địch bị phân hóa mạnh, tinh thần cực kỳ dao động. Bài toán lúc ấy đặt ra là, có tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay hay không khi chưa có lệnh của Trung ương và tiến hành bằng phương thức nào? Ngày 16-8, đồng chí Nguyễn Khang, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy triệu tập Thành ủy Hà Nội và hai cán bộ của Xứ ủy là đồng chí Nguyễn Huy Khôi và Lê Trọng Nghĩa để nghe phổ biến thông báo của Xứ ủy và thành lập Ủy ban Khởi nghĩa, do đồng chí Nguyễn Khang trực tiếp làm chủ tịch, để chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Nội. Hội nghị nhất trí phải xúc tiến khởi nghĩa nhưng qua phân tích tình hình, chưa kết luận dứt khoát và yêu cầu phải nắm chắc hơn nữa thái độ của Nhật cũng như của chính quyền bù nhìn.
Tối 17-8, tôi chủ trì cuộc họp của Thành ủy mở rộng với các đồng chí trong Ủy ban Khởi nghĩa. Bàn rất căng và cuộc họp kéo dài đến hết đêm. Một số ý kiến băn khoăn nếu ta tiến hành Tổng khởi nghĩa thì liệu có giải quyết được không khi lực lượng địch còn rất mạnh với hơn một vạn quân Nhật và trên một nghìn Bảo an binh, quân Nhật còn có cả xe tăng, đại bác? Để chắc chắn, nên chờ ý kiến của Trung ương và lực lượng Giải phóng quân về tăng cường. Nhiều ý kiến không nhất trí như vậy mà đề nghị cần nhanh chóng tiến hành Tổng khởi nghĩa vì thời cơ đã chín muồi. Kết luận cuộc họp, chúng tôi cho rằng, quân Nhật dù đông, vũ khí nhiều nhưng đã mất tinh thần nghiêm trọng, ta có thể vô hiệu hóa; lực lượng Bảo an binh một bộ phận đã ngả theo cách mạng. Nếu ta không chớp thời cơ lúc này thì bọn ngụy quân, ngụy quyền sẽ phô trương thanh thế để tranh thủ lôi kéo quần chúng. Từ cơ sở đó, hội nghị quyết định: Sử dụng lực lượng chính trị, vũ trang của ta nhanh chóng giành chính quyền. Phải kết hợp giữa các đòn chính trị, quân sự và ngoại giao. Không dùng tác chiến quân sự với quân Nhật. Trưa hôm sau (18-8), đại diện Thành ủy Hà Nội đã báo cáo toàn bộ kế hoạch khởi nghĩa với Xứ ủy. Đồng chí Nguyễn Khang thay mặt Xứ ủy đã nhất trí và thông qua kế hoạch này.
PV: Thực tế của cuộc Tổng khởi nghĩa có diễn ra theo đúng “kịch bản” của Thành ủy không và khi đó ông ở đâu để chỉ đạo phong trào và xử lý các tình huống?
 |
Chiếc cổng này, trước đây là Trại Bảo an binh, nơi lực lượng cách mạng đã tước vũ khí địch và chiếm lĩnh vào ngày 19-8-1945. Ảnh: TH |
Đại tướng Nguyễn Quyết: Sáng sớm ngày 19-8, theo lời kêu gọi của Ủy ban Khởi nghĩa, hàng vạn nông dân ngoại thành tiến về các cửa ô của Hà Nội để tập trung. Trong nội thành, công nhân các nhà máy, xí nghiệp nghỉ việc, người buôn ở các chợ cũng dừng buôn bán… Tất cả mọi người nô nức kéo ra đường, trên tay là khẩu hiệu, là cờ. Một cuộc mít tinh khổng lồ đã diễn ra tại Quảng trường Nhà hát Lớn, sau đó dưới sự lãnh đạo của các thành viên Ủy ban Khởi nghĩa, quần chúng tiến về các cơ quan hành chính, đầu não của địch để giành chính quyền. Ta đã nhanh chóng uy hiếp làm chủ tình hình tại khu vực ngoại thành, tại Bắc Bộ phủ… Nhưng tại Trại Bảo an binh, nơi tôi trực tiếp phụ trách tình hình rất căng thẳng. Quân Nhật kéo xe tăng đến uy hiếp, đòi tước vũ khí và đàn áp cuộc khởi nghĩa. Một mặt, tôi báo cáo tình hình với đồng chí Nguyễn Khang, mặt khác cho tự vệ bố trí sẵn sàng chiến đấu; quần chúng vây chặt lấy nhóm sĩ quan Nhật vòng trong, vòng ngoài, hô khẩu hiệu làm hậu thuẫn. Anh em tự vệ và quần chúng đề nghị tôi cho tuyên chiến với quân Nhật. Quán triệt chủ trương của Thành ủy, tôi chỉ đạo không được nổ súng, nhưng tiếp tục bao vây, gây sức ép, đồng thời trực tiếp gặp tên chỉ huy Nhật và tuyên truyền với binh lính Nhật về tình hình hiện nay và mục đích cuộc khởi nghĩa của ta, hứa bảo đảm an toàn cho binh sĩ Nhật. Cùng với đó, đồng chí Nguyễn Khang đã cử một phái đoàn ngoại giao của ta đến bộ tham mưu quân Nhật để đấu tranh với chúng. Thái độ quân Nhật ban đầu rất hung hăng, nhưng nhờ áp lực của quần chúng và tuyên truyền của ta nên đến chiều chúng phải rút. Cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã thành công rực rỡ, nhanh chóng, trọn vẹn, đặc biệt là không gây đổ máu.
Tin dân, dựa vào dân - bài học không bao giờ cũ
PV: Quan điểm của ông thế nào khi có một luận điệu cho rằng, thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội là do “ăn may” vì lúc đó Nhật đã thua Đồng minh và không còn tinh thần để đối phó với ta, trong khi đó ngụy quân, ngụy quyền cũng phản ứng yếu ớt?
Đại tướng Nguyễn Quyết: Sao lại là ăn may? Luận điệu này không có cơ sở thực tế và cố tình bóp méo, xuyên tạc lịch sử, hạ thấp thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung. Trong thực tế, ngay trong ngày 19-8, Nhật cũng đã uy hiếp, đòi tước vũ khí và đàn áp cuộc khởi nghĩa. Còn vào ngày 17-8, chỉ hai ngày trước Tổng khởi nghĩa, Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim còn tổ chức cuộc mít tinh lớn hòng lôi kéo quần chúng và kêu gọi diệt Việt Minh nhưng đã bị ta làm cho thất bại. Như vậy, cả Nhật và bọn ngụy quân, ngụy quyền đều âm mưu tiêu diệt Việt Minh và duy trì chính quyền bù nhìn đang tồn tại. Nếu ta không có sự chuẩn bị lâu dài và kỹ càng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và có phương thức đấu tranh hợp lý thì làm sao có một hệ thống cơ sở mạnh, có lực lượng vĩ đại của quần chúng, lực lượng tự vệ vũ trang và tranh thủ được một bộ phận không nhỏ những người trong hàng ngũ địch ngả theo cách mạng. Không có điều đó thì không thể đàn áp được bọn ngụy quân, ngụy quyền và gây sức ép buộc quân Nhật phải chấp nhận ngồi yên, không can thiệp. Việc quân Đồng minh giành thắng lợi và hàng ngũ địch có sự phân hóa, dao động là những điều kiện thuận lợi và ta đã biết chớp thời cơ để giành chính quyền. Thắng lợi vĩ đại này tuyệt nhiên không phải tự dưng mà có, không phải “từ trên trời rơi xuống”. Cuộc Tổng khởi nghĩa này còn thể hiện thành công độc đáo của Hà Nội, đó là tinh thần sáng tạo, không máy móc, giáo điều, kịp thời và táo bạo. Đồng chí Trường Chinh đã từng nói: “Nhiệt tình cách mạng của quần chúng, tinh thần chủ động sáng tạo của Đảng bộ địa phương đã biến chủ trương đúng đắn của Đảng thành thắng lợi vẻ vang. Đây là trận thắng đầu tiên nhưng rất quan trọng. Nó mở đường cho thắng lợi của cả nước…”.
PV: Theo ông, bài học lớn nhất từ thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám còn mang ý nghĩa thời sự trong tình hình hiện nay là gì?
Đại tướng Nguyễn Quyết: Cách mạng Tháng Tám để lại nhiều bài học lớn nhưng tôi nghĩ, bài học tin ở sức mạnh của quần chúng, dựa vào quần chúng để làm cách mạng là kinh nghiệm và bài học lớn nhất, luôn luôn thời sự. Ngày nay, đất nước đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đe dọa ổn định chính trị, sự phát triển kinh tế-xã hội, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hơn lúc nào hết, Đảng phải tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, cả trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài, tạo sự đồng thuận hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng phải dũng cảm phê bình và tự phê bình để xây dựng tổ chức mạnh và có phương thức lãnh đạo đúng; chống tư tưởng dao động, cứng nhắc, giáo điều. Làm được như vậy, nhất định chúng ta sẽ tiếp tục “ghi được bàn thắng quyết định” như lời đồng chí Trường Chinh nói về thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945…
PV: Xin trân trọng cảm ơn và kính chúc sức khỏe ông!
Hoàng Tiến thực hiện