Đầu tháng 10-1987, khi năm học thứ ba vừa mới bắt đầu, các học viên Khóa 8, Trường Sĩ quan Lục quân 2 rất vui mừng khi biết tin, năm đó, theo quy định của Bộ Quốc phòng, họ sẽ được cử sang chiến trường Campuchia để thực tập với các cương vị từ trung đội trưởng đến trợ lý tham mưu tiểu đoàn. Mọi người khẩn trương hoàn tất công tác chuẩn bị, háo hức đợi ngày lên đường thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả. Mất gần một tuần vừa đi tàu, vừa đi ô tô, gần 500 học viên của nhà trường đã có mặt đông đủ tại các mặt trận 479, 779, 979, hòa mình cùng các đơn vị chủ lực của ta thực hiện các cuộc tiến công, truy quét địch.
    |
 |
Đại tá Nguyễn Đình Sơn (thứ bảy, từ phải sang) trò chuyện cùng cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: AN KHANG |
Nguyễn Đình Sơn lúc đó mang quân hàm trung sĩ, được phân công làm Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 88, Sư đoàn 302 (Quân khu 7), đóng quân tại Svay Leu (huyện Sam Raong, tỉnh Siem Reap). Tiểu đoàn 6 là đơn vị đủ quân, có nhiệm vụ chốt giữ tuyến đường trọng yếu từ Sam Raong về các huyện đông bắc của Siem Reap nên thường xuyên bị Pol Pot tấn công, quấy phá. Để tránh đòn tập kích bất ngờ của địch, ta luôn nêu cao tinh thần cảnh giác. Công tác tuần tra canh gác, trực sẵn sàng chiến đấu được các đơn vị ta duy trì rất nghiêm túc. Trung bình mỗi tháng, đơn vị tổ chức 3-4 đợt truy quét, phục kích, tiêu diệt các toán Pol Pot nhỏ lẻ, trà trộn, ẩn mình trong khu vực căn cứ lõm. Mỗi lần bị ta đánh mạnh, địch thường dạt về khu vực biên giới giáp Thái Lan củng cố lực lượng, chờ cơ hội phản công. Không dám đánh gần, chúng thường sử dụng cối nhỏ bắn từ xa nên độ chính xác không cao.
Trung đội do Nguyễn Đình Sơn phụ trách có gần 30 chiến sĩ, chủ yếu là người Tây Ninh, TP Hồ Chí Minh. Tuy thời gian nghĩa vụ chỉ có 3 năm nhưng nhiều đồng chí xung phong ở lại tham gia chiến đấu đến 5-6 năm trời, rất giỏi kinh nghiệm trận mạc. Là trung đội trưởng nhưng Sơn học hỏi được rất nhiều từ chính các chiến sĩ thuộc quyền. Có năng lực cầm quân và chiến đấu, cuối giai đoạn thực tập, anh được cấp trên tin tưởng rút lên làm trợ lý tham mưu của tiểu đoàn, trực tiếp phụ trách các trung đội trực thuộc.
Trong các cánh rừng nguyên sinh, sau mỗi lần thay đổi vị trí trú quân, bộ đội ta đều khẩn trương xây dựng công sự trận địa, làm lán trại, ổn định nơi ăn ở và tích cực tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống. Lính trẻ lúc đó rất hăng hái tham gia chiến đấu. Nhờ được huấn luyện, trang bị đầy đủ nên tỷ lệ thương vong của ta rất thấp. Bộ đội hy sinh, bị thương chủ yếu do vấp phải mìn và sốt rét. So với trong nước, điều kiện sinh hoạt của bộ đội ta trên đất bạn có phần nhỉnh hơn. Ngoài tiêu chuẩn, chế độ chung, các đơn vị còn tổ chức trồng lúa, trồng rau, nuôi gà, nuôi lợn… tích trữ được nhiều lương thực, thực phẩm. Chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất được bộ đội Việt Nam thực hiện triệt để. Do điều kiện chiến tranh, tuy ít được tiếp xúc nhưng người dân Campuchia đều quý mến bộ đội Việt Nam, hỗ trợ, giúp đỡ được gì họ cũng sẵn lòng. Đáp lại tình cảm ấy, những lúc mổ heo, mổ bò, gặt lúa… bộ đội ta lại gùi ra biếu bà con.
Đại tá Nguyễn Đình Sơn vẫn nhớ như in người đồng đội Lê Văn Nông, quê ở Quảng Nam, rất thư sinh, nhanh nhẹn, có nhiều thành tích xuất sắc, được bầu chọn là học viên tiêu biểu và được vinh dự chụp ảnh cùng đồng chí Chu Huy Mân và đồng chí Nguyễn Quyết trong dịp các đồng chí về thăm trường. Cuối năm 1987, một lần đi truy quét Pol Pot trong rừng sâu tỉnh Koh Kong, Lê Văn Nông anh dũng hy sinh. Đây là học viên duy nhất của Khóa 8 hy sinh trong quá trình thực tập nên cả đơn vị ai cũng bàng hoàng, tiếc thương. Thiếu tướng Thái Đại Ngọc, Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu là học viên cùng khóa, người bạn thân của liệt sĩ Lê Văn Nông. Đầu năm 2012, khi làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2, ông đã cất công tìm kiếm và quy tập được hài cốt liệt sĩ Lê Văn Nông về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Tam Lộc (Phú Ninh, Quảng Nam).
Đầu tháng 1-1988, các học viên được lệnh rút quân về nước, kết thúc khóa thực tập. Ngày chia tay đơn vị, có chiếc màn tuyn và mấy bộ quần áo mới dùng được vài lần, Nguyễn Đình Sơn giặt sạch, phơi khô và gửi lại anh em chiến sĩ trong đơn vị làm kỷ niệm. Sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Đình Sơn được giữ lại Trường Sĩ quan Lục quân 2 công tác, là lớp trưởng Lớp học viên quốc tế Campuchia. Nhờ thông thạo tiếng Khmer, anh được các học viên quý mến, tâm sự rất nhiều điều. Đầu năm 1993, do điều kiện gia đình, Nguyễn Đình Sơn xin chuyển về Quân khu 5 công tác. Kinh nghiệm thực tế từ chuyến thực tập trên chiến trường là hành trang quý báu giúp anh không ngừng phấn đấu, trưởng thành trên con đường binh nghiệp.
VIỆT HÙNG