Khoảng 15 giờ ngày 25-4-1975, tôi và Tiểu đội trưởng Thái Văn Hạnh được Đại đội phó Phạm Như Trữ dẫn lên gặp Đại đội trưởng Nguyễn Văn Xe. Tại đây có các anh ở Ban Trinh sát Trung đoàn, sau có thêm các anh ở bộ phận thông tin, công binh và cán bộ Ban Tham mưu Trung đoàn cũng đến. Lúc này, chúng tôi mới biết được giao nhiệm vụ: Trước 18 giờ tới bìa rừng gặp giao liên dẫn đường vào vùng ven Củ Chi lên Hóc Môn, tổ chức trinh sát dẫn đường cho công binh và thông tin đánh dấu rồi quay về Trung đoàn trước nửa đêm 26-4. Đại đội phó Phạm Như Trữ phụ trách tổ công tác đặc biệt gồm 9 người này. Chúng tôi được căn dặn: Nhiệm vụ này rất quan trọng, phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu gặp khó khăn thì còn một người cũng phải về đến trung đoàn trước nửa đêm 26-4. Tất cả nhận lệnh và về chuẩn bị. Tôi chỉ kịp lấy gùi, lắp đầy đạn vào hộp súng AK, đóng khóa an toàn, mang thêm một cơ số đạn và chuẩn bị bi đông nước, vài phong lương khô...

leftcenterrightdel
 Tác giả - cựu chiến binh Nguyễn Thế Liêm.

Chúng tôi ra khỏi rừng thưa nơi trú quân đến rừng cây lúp xúp thì đã thấy hai nữ giao liên, tác phong rất gọn gàng chờ sẵn. Sau này, tôi mới biết, một trong hai nữ giao liên ấy là chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Thị Nết (tên hoạt động là Nguyễn Thị Trung Kiên, nguyên mẫu nhân vật cô Nhíp trong bộ phim cùng tên).

Một lần nữa anh Trữ quán triệt nhiệm vụ và chúng tôi khẩn trương hành quân. Hai nữ giao liên dẫn đường đi thoăn thoắt phía trước. Sau đó là tôi, khi anh Hạnh, lúc anh Trữ, rồi đến bộ phận thông tin, công binh. Cả đội hình lặng lẽ bám sát nhau và di chuyển thật nhanh. Trong bóng tối, tôi cứ để ý chiếc cặp lá sắt trên đầu cô gái phát sáng mà bám bước theo cho kịp. Cả đoạn đường không ai trao đổi với ai, chỉ có các khẩu lệnh từ các nữ giao liên: Qua phải, qua trái, lẹ lên các anh, vượt lộ...

 Mất gần 7 tiếng đi như chạy mới tới đích. Đúng lúc đồng bào đang họp ngoài bưng nên chúng tôi được mời dự. Biết chúng tôi là bộ đội chủ lực, bà con mừng lắm. Chúng tôi ngồi dự ít phút, lắng nghe họ luận bàn trong không khí rất sôi nổi, phân công chu đáo công việc, nhóm nào nấu ăn, nhóm nào tải thương, bảo vệ. Nghe những lời họ truyền tai nhau: Cách mạng về, bộ đội chủ lực về thì nhất định giải phóng Sài Gòn... mà lòng tôi cũng rạo rực theo. Tôi càng tin tưởng rằng cuộc chiến đấu này nhất định sẽ thắng lợi, ngày chiến thắng sẽ không còn xa nữa!

leftcenterrightdel

 Bộ đội Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Trong ảnh: Đồng chí Nguyễn Thế Liêm cơ động ở vị trí thứ ba. Ảnh: ĐINH QUANG THÀNH

Chúng tôi từ biệt bà con để về nghỉ trong căn hầm nửa chìm nửa nổi, mỗi chiều chừng 3m, ở giữa là khẩu đại liên lắp trên chân súng cao chừng ngang ngực, đạn đã lên nòng. 3 lính trinh sát chúng tôi ngủ trên 3 võng. Các hầm thông tin và công binh chắc cũng vậy. Một nữ giao liên trở lại và phổ biến: “Khi có địch, các anh đi theo hầm địa đạo sẽ có người đón, nổ súng chiến đấu đã có du kích”. Tôi nhớ lại lời căn dặn trước lúc lên đường, dù trong bất kỳ tình huống nào cũng không được nổ súng và hiểu rằng, chúng tôi được bảo vệ chu đáo để làm một nhiệm vụ đặc biệt.

Trời chưa sáng, chúng tôi đã trở dậy ăn nhẹ, kiểm tra súng đạn, cùng du kích xác định vị trí đứng chân, xác định chặng đường. Du kích cũng cho biết, đêm qua bọn bảo an, dân vệ và du kích đã chạm súng tại một số điểm nơi đoàn quay về hôm nay. Họ dặn kỹ những thuận lợi, khó khăn trên đường về đơn vị.

Chuẩn bị lên đường, anh Trữ lấy bản đồ đặt la bàn xác định hướng, phổ biến những quy ước trên đường, bám sát và bảo vệ nhau khi cần. Trinh sát, công binh và thông tin theo chức năng, nhiệm vụ mà đánh dấu các vị trí. Khoảng cách mỗi nhóm vừa đủ nhìn thấy nhau. Tôi thấy rõ trên bản đồ có Quốc lộ 1, đường phân giới bên kia ghi là Hậu Nghĩa (thuộc tỉnh Tây Ninh ngày nay), chỗ chúng tôi đứng chân là Hóc Môn, Sài Gòn (nay là xã Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh).

Trời mờ sáng, anh Hạnh đi trước. Mỗi nhóm cách nhau vài chục mét, lặng lẽ, trật tự và tiến nhanh. Ra khỏi rừng thưa nơi có cánh đồng rộng, hố bom dày chi chít, cỏ dày và cao bằng ngực khó đi hơn, đội hình 9 người chúng tôi vẫn bám sát và hết sức khẩn trương.

leftcenterrightdel
Vợ chồng cựu chiến binh Phạm Như Trữ (thứ nhất, thứ hai, từ trái sang) và đồng đội thăm gia đình cựu chiến binh Nguyễn Thế Liêm, năm 2023. Ảnh: KHÁNH AN 

Nắng lên, máy bay trinh sát địch vòng đi vòng lại soi mói. Máy bay trực thăng rồi máy bay cánh quạt to đen sì bay tới. Nó qua thì chúng tôi nhổm dậy đi, vòng lại thì nhảy xuống hố bom tránh. Quạt gió rít trên đầu. Địch bắn đạn cối và quạt súng xuống chỗ nghi ngờ xong lại vút lên, chừng 10 phút quay lại quần thảo. Cứ như vậy hơn một giờ, nhưng cỏ rậm và hố bom dày đã che chở chúng tôi, khi chúng tôi vào lại rừng thưa thì máy bay địch không còn đuổi theo nữa.

Chúng tôi phải tranh thủ từng phút để đi, nhưng tới rừng thấp thì đã đuối lắm. Anh Trữ ra hiệu nghỉ ít phút. Chúng tôi ngồi nghỉ ăn chút lương khô và uống nước, quần áo ướt sũng mồ hôi. Cổ họng khát khô mà cố dặn lòng chỉ uống ngụm nhỏ còn để dành.

Cỏ dày níu bước chân, không còn biết là chúng tôi đã đi được bao nhiêu nữa. Tôi nhìn anh Trữ, thủ trưởng của mình, anh cũng đã mệt lắm. Mấy bi đông đều không còn nước, anh vẫy hai tổ trưởng lên hội ý rồi đi tiếp. Mặt trời xuống thấp rồi dần tối, cánh đồng rộng, phải lấy giấy mà anh Trữ xếp trong túi mìn claymore ra cho tôi và anh Hạnh xé nhỏ đánh dấu đường.

Ngoài rải giấy, bẻ cành cây, chúng tôi còn đánh dấu vào thân cây, lựa đúng chiều tiến mà đánh dấu, nếu vạch đánh dấu không chuẩn thì công binh không nhận được đường. Chúng tôi khom thấp xuống lấy chuẩn, thận trọng bám nhau đi trong đêm. May mắn phía trước là một khu sình, chúng tôi nghỉ lấy nước uống và ăn lương khô. Vậy là đủ tỉnh táo, không vòng tránh nữa mà quyết định cắt thẳng qua sình mà đi. Tiếng súng nổ ran ở đâu đó, có thể là thám báo địch với bộ đội địa phương, nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm tiến bước.

“Nhà đây rồi!”, anh Trữ reo lên. Tất cả nằm thấp xuống mặt cỏ, úp tai lên mặt đất để nghe âm thanh rồi quan sát tìm kiếm. Đúng là đã về đến nơi. Anh Trữ bật đèn pin nháy ám hiệu. Vậy là chúng tôi đã về tới đơn vị an toàn.

Ngay sau đó, anh Trữ lên Trung đoàn báo cáo kết quả công tác. Còn tôi và anh Hạnh về đại đội trong sự chào đón của đồng đội. Vào Sài Gòn có một ngày một đêm mà như xa lâu lắm. Tôi kể lại cho anh em những điều mắt thấy tai nghe, lòng tràn đầy niềm tin và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ sắp tới. Chỉ vài ngày nữa, quân ta sẽ đi trên đường mà chúng tôi vừa trinh sát để tiến vào giải phóng Sài Gòn. Và đúng trưa 30-4-1975, chúng tôi đã có những giờ phút chiến đấu oanh liệt tại sân bay Tân Sơn Nhất, góp phần vào thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

NGUYỄN THẾ LIÊM