QĐND - Ngày 19-5-1948, lá cờ đỏ sao vàng được 3 học sinh Trường Chu Văn An (Nguyễn Sỹ Vân, Nguyễn Văn Khâm, Nguyễn Trọng Quang) treo lên Tháp Rùa cổ kính, trong lòng Thủ đô đang bị giặc chiếm đóng, thể hiện tinh thần yêu nước và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của thanh niên-học sinh-sinh viên Hà Nội. Sau đó, Nguyễn Sỹ Vân bị bắt và đi đày ở Khe Tù, Tiên Yên, Quảng Ninh, bị địch tra tấn đến chết sau cuộc vượt ngục không thành (năm 1948). Năm 2001, hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Sỹ Vân mới được tìm thấy trong bao nỗi ngậm ngùi, thương xót…

Hồ Gươm - nơi từng diễn ra sự kiện treo cờ Tổ quốc trên Tháp Rùa, ngày 19-5-1948. Ảnh: Song Thanh

Cờ Tổ quốc trên Tháp Rùa

Chúng tôi đến ngôi nhà số 50, Hàng Bài, Hà Nội - ngôi nhà mà gia đình liệt sĩ Nguyễn Sỹ Vân ở từ những năm 50 của thế kỷ 20, gặp ông Nguyễn Đình Tân và Nguyễn Đình Giáp, hai em trai của liệt sĩ, sau đó, tra cứu thêm tư liệu để tìm hiểu sự kiện cho tường minh hơn.

Theo lời kể của hai ông, tháng 9-1947, Thành ủy Hà Nội đã được thành lập lại. Tổ chức Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, LLVT cũng được kiện toàn từ thành phố xuống các cấp cơ sở. Thành ủy chủ trương kiên trì gây dựng cơ sở kháng chiến, đẩy mạnh các hoạt động vũ trang, trong đó, đặc biệt coi trọng địa bàn nội thành. Dưới sự chỉ đạo của Thành ủy và Ty Công an Thành phố, Công an Quận 6 đã triển khai đường dây vào nội thành, gây dựng được cơ sở mà đối tượng là những người  yêu nước đã từng tham gia và ủng hộ Việt Minh trong Cách mạng Tháng Tám, từ đó, móc nối với thanh niên, học sinh trường Chu Văn An. Ông Nguyễn Đình Tân nhớ lại: “Tháng 12-1946, anh Vân theo gia đình tản cư về quê ở Đại Từ, huyện Chương Mỹ. Cuối năm 1947, gia đình mới theo làn sóng dân hồi cư, trở lại thành phố sinh sống. Ngôi nhà 50 Hàng Bài vốn là nhà của ông chú họ, dược sĩ Nguyễn Đình Hoằng, đã đi tản cư, nhờ cha tôi-cụ Nguyễn Sỹ Quảng trông hộ. Năm 1948, anh Vân vào trường Chu Văn An học tiếp lớp Đệ Tứ (cuối cấp phổ thông cơ sở) để lấy bằng Đíp-lôm. Tôi không biết anh Vân tham gia kháng chiến, vì lúc ấy tôi học lớp dưới”.

 Từ khi lập Ban cán sự nội thành vào cuối năm 1947 do đồng chí Bí thư Thành ủy Lê Quang Đạo trực tiếp phụ trách đến giữa năm 1948, cơ sở kháng chiến đã phát triển mạnh hơn trước. Phong trào chiến tranh du kích, diệt tề trừ gian sôi nổi ở ngoại thành đã tác động mạnh vào các cơ quan đầu não của địch; đồng thời, nhiều cơ sở kháng chiến đã có ở các nhà máy, xí nghiệp, khu phố, trường học. Và cơ hội hành động đã đến với  tổ  thanh niên kháng chiến trường Chu Văn An. Công an Quận 6 do ông Hồng Hà (tức Quỳ, sau này là chồng của bà Lê Thi, Viện trưởng Viện Triết học) làm Quận trưởng báo cáo kế hoạch treo cờ ở Tháp Rùa và được Ban cán sự nội thành duyệt. Ông Khâm là Tổ trưởng quán xuyến toàn bộ công việc chuẩn bị sẵn cán cờ, lá cờ, nhất là việc bí mật bơi ra hồ sao cho địch không phát hiện được. Tất cả phải chu đáo, kỹ càng, tỉ mỉ, vì bốt Hàng Trống ở góc đường Lê Thái Tổ-Tràng Thi (nay là trụ sở Công an quận Hoàn Kiếm), chỉ cách hồ vài bước chân. Đêm 18-5, ông Khâm cảnh giới, hai ông Vân và Quang bơi ra Tháp Rùa làm nhiệm vụ. Sáng hôm sau, bọn địch ở cả bốt Hàng Trống và Tòa Đốc lý mới nhìn thấy lá cờ, chúng tức tốc ra tháp giật cờ, nhưng nhân dân đã truyền tai nhau: Việt Minh treo cờ ở Tháp Rùa. Cờ đỏ sao vàng tung bay giữa hồ Gươm, làm cho nhân dân nức lòng, phấn chấn, tin tưởng. Từ 17-2-1947, khi Trung đoàn Thủ Đô rút ra khỏi thành phố, đến tháng 5-1948 là hơn một năm, với việc treo cờ, lực lượng kháng chiến đã “ra mắt” dân chúng. Lá cờ đỏ sao vàng trên Tháp Rùa đã vẫy gọi nhân dân  hướng về Chính phủ kháng chiến.

Di ảnh liệt sĩ Nguyễn Sỹ Vân.

Anh đã về với đất mẹ

Trong gia đình ông Nguyễn Đình Tân, bố đi làm công chức ở Hỏa xa Gia Lâm, mẹ bán hàng chè nước ở 52 Hàng Bài, không ai biết ông Nguyễn Sỹ Vân đi treo cờ đêm ấy, cho đến khi ông bị bắt chiều 25-5-1948. Ông Tân chỉ ra con ngõ nhỏ: Chiều 25-5, anh Vân bị bắt ở đúng căn phòng ấy (nay gia đình ông Ngô Song Chí và Ngô Song Ái ở); còn chỗ gia đình tôi đang ở đây, xưa là khu vườn. Tôi nhớ như in chiều ấy, vì trước ngày bị bắt, anh Vân đi lấy giấy căn cước cho bà nội tôi. Bà từ Hải Phòng chuyển lên đây sinh sống với bố mẹ tôi. Khoảng 5 giờ chiều 25-5, ô tô của bọn phòng Nhì đến 50 Hàng Bài, hỏi: Ở đây có ai là Việt Sơn không? Bà chị họ tôi-con gái ông bác Nguyễn Sĩ Hoằng trả lời: Không có ai là Sơn. Nó hỏi tiếp: Có ai học trường Chu Văn An không?

 Lúc đó, chỉ có các anh chị em tôi và tôi ở nhà. Mẹ tôi đang bán chè chén ở số nhà 52, nghe bà con mách, tất tả chạy về. Nó không khám xét gì, bắt anh Vân đi luôn ra ô tô. Tôi chạy theo, đã thấy anh Khâm ngồi trong đó rồi. Mẹ tôi gào khóc thảm thiết.

Địch đưa ông Khâm và ông Vân về hầm đá Cửa Đông tra tấn. Ông Tân nói rành rẽ: “Gia đình tôi tiếp tế cho anh Vân thông qua ông “Bếp” của bọn phòng Nhì ở Cửa Đông, vì chúng không cho gia đình vào gặp. Sau một thời gian ngắn ở hầm đá Cửa Đông, chúng đưa anh sang Hỏa Lò, lập án, rồi đày đi Khe Tù, Tiên Yên lao động khổ sai, làm đường cho chúng. Tôi cũng nói rõ rằng, mãi những năm gần đây, tôi mới biết anh Khâm và anh Quang không bị đày đi Khe Tù như anh Vân mà từ Hỏa Lò bị chúng chuyển đi và bị bắn ở Phùng(*). Năm 1952, ông Trần Hiền có báo cho chị gái tôi-chị Lan, biết: Anh Sỹ Vân vượt ngục nhưng bị chúng bắt lại, tra tấn đến chết ở trại giam Khe Tù, Tiên Yên ngày 7-11 (âm lịch) năm 1948. Gia đình tôi lấy ngày này làm giỗ anh. Thật đau xót, nhưng lúc ấy còn chiến tranh, gia đình cũng không ra viếng anh được. Sau hòa bình, với sự giúp đỡ chí công vô tư của ông Trần Hiền ở Sở Công an thành phố, anh tôi được công nhận là liệt sĩ vào ngày 15-6-1960… Nhiều lần dò tìm hài cốt anh không được, tôi rất khổ tâm. Năm 2000, tôi lại quyết tâm đi tìm hài cốt anh. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cơ quan, cá nhân, nhất là anh Nguyễn Đức Minh, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng (nay là Tổng cục Chính trị), Bộ Công an và Ban liên lạc học sinh kháng chiến Hà Nội như anh Trịnh Văn Bảo, Đào Bá Giáp, tháng 7-2001, chúng tôi đã tìm thấy nơi anh tôi hy sinh ở Khe Tù-Tiên Yên. Tháng 10-2001, gia đình cùng các tổ chức liên quan đưa hài cốt anh tôi về làm lễ truy điệu tại phường Hàng Bài rồi về quê cha đất tổ. Trên đường đi, xe tang đã dừng ở Hàng Khay-Lê Thái Tổ để gia đình và bạn bè, đồng chí tưởng nhớ lại việc làm anh dũng của anh tôi năm xưa.

 (*) Về ông Nguyễn Trọng Quang, Thiếu tướng Nguyễn Đức Minh bị tù cùng các ông Khâm, Vân, Quang ở hầm đá Cửa Đông có thêm thông tin rằng: Sau vụ ông Quang vẽ hình cờ đỏ sao vàng lên tường ở  hầm đá Cửa Đông, địch đưa ông Quang, ông Khâm và hai người nữa lên Phùng rồi bắn chết. Ông Khâm đã được công nhận là liệt sĩ cùng ông Nguyễn Sỹ Vân năm 1960, ông Nguyễn Trọng Quang, sinh năm 1930, vốn nhà ở 12 Bát Đàn, mới được công nhận là liệt sĩ năm 2009.

PHẠM KIM THANH