Ở Khu 5 bấy giờ có hai tờ tạp chí văn nghệ. Đoàn cán bộ văn nghệ vừa chân ướt chân ráo từ miền Bắc vào Ban Tuyên huấn khu ủy thì một số anh em được điều sang bên Tạp chí Quân Giải phóng Trung Trung Bộ. Chúng tôi, Hồng nam, Hồng nữ tình nguyện đi. Vậy là thành bộ đội.

Vào trong doanh trại mới biết, cả Ban Văn nghệ đi chiến dịch từ đầu mùa khô. Nhà đã tan tành từ lâu, chỉ còn trơ trọi một cái nền. Cạnh cái nền ấy có nhà của Ban Dân vận. Đồng chí Trưởng ban là Nguyễn Văn Loan, một người tốt bụng và giàu lòng nhân ái đón chúng tôi về nhà, lo cơm nước, xởi lởi kể chuyện, hỏi han thân tình. Đã buồn, rảnh rang càng buồn, bàn nhau đốn cây, chặt lá làm nhà.

leftcenterrightdel
Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Chí Trung (bên trái) gặp lại nguyên mẫu nhân vật trong tác phẩm của ông. Ảnh: TRẦN ĐĂNG 

Người đầu tiên đi chiến dịch về là Đại úy Nguyễn Chí Trung. Mừng ơi là mừng. Lúc đó cỡ 9 giờ đêm. Mưa rét, đang quây bên một đống lửa lớn giữa nhà thì nghe có tiếng người ở chái nhà. Chạy ra, thấy lù lù một đống lùng nhùng trong ni-lông:

- Mình là Nguyễn Chí Trung. Ôi chà, chào cả nhà.

Anh bắt tay từng người. Vào nhà. Cũng chỉ có ba người đã đón, đã bắt tay nhau vừa xong nhưng anh lại chào, lại bắt tay nữa. Thôi rồi. Anh là người hay quên. Những ngày ở đây, nghe không biết bao nhiêu cái sự quên đến kỳ lạ của Nguyễn Chí Trung. Hồi anh đi tập kết ra Bắc, có hôm mượn xe đạp của bạn đi họp đến mười cây số. Vậy mà khi về, đi bộ, quên xe ở cuộc họp. Tưởng là chuyện bịa, sau này hỏi, anh thú nhận có chuyện đó. Một lần khác đi cõng gạo. Về gần đến nhà thì trời sập tối. Anh bèn ngả lưng ngay ở một trạm gác, đánh một giấc đến sáng, mai đi tiếp. Không ngờ mở mắt nhận ngay ra nhà mình trước mặt... Chúng tôi cũng đã từng chứng kiến một vài lần anh xuống suối tắm. Trên đường đi gặp ai đó, thế là rỉ rả hỏi chuyện, nói chuyện. Thau quần áo đặt cạnh đường đi. Vãn chuyện. Chạy lên nhà tìm. Không thấy. Xuống suối. Không thấy. Có khi mấy ngày sau mới tìm được mà do người khác chỉ cho.

Quên đến thế chỉ là Nguyễn Chí Trung, nhưng nhớ có lẽ cũng khó có ai nhớ được như anh. Những nghị quyết, những cuộc họp cách đó mười năm, hai mươi năm - chủ trương gì, ai phát biểu ra sao anh nói lại vanh vách. Nếu cãi, anh lục sổ ghi chép và đọc lại nguyên văn. Cái lần đầu anh bảo học ngoại ngữ khi mới chân ướt chân ráo vào chiến trường, tôi đã coi đó là một điều vớ vẩn. Ở rừng, bận bịu, có bao nhiêu điều cần làm hơn là học ngoại ngữ, có bao nhiêu điều cần nhớ hơn là nhớ tiếng nước ngoài. Một chặng đường ngút ngát ba mươi năm sau ở nhà số 4 Lý Nam Đế, anh nói với tôi: “Tranh thủ học thêm ngoại ngữ em ạ. Cần lắm. Nói như em: Không có năng khiếu ngoại ngữ... là không đúng đâu...”. Tôi ngớ ra. Vâng, hình như hồi xửa hồi xưa đó tôi có nói với anh như vậy để trốn cái việc mình không muốn. Nếu anh không nhắc nhân một lần tiếp khách nước ngoài ở cơ quan làm sao nhớ được.

*

*      *

Mỗi lần đi chiến dịch, anh chuẩn bị tỉ mẩn, chu đáo đến mức khó chịu. Đầu tiên là họp cơ quan, tất nhiên, trước đó là họp chi bộ. Anh khái quát chung về tình hình chiến dịch sẽ diễn ra. Sau đó, gặp từng người nói kỹ hơn nữa về sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn sẽ đến. Dặn dò đi đứng thế nào, hỏi chuyện bộ đội ra sao... Anh bận bịu trong vô vàn công việc, nào họp với cấp trên đi làm phái viên ở các sư đoàn, nào viết tài liệu cho khu ủy, quân khu, chuẩn bị tài liệu gì đó cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê... Nhưng vẫn để ra cả buổi để trao đổi với chúng tôi, nhất là ba sinh viên mới vào chiến trường. Và cũng chưa dừng ở đó: Khi tới đơn vị, chúng tôi còn nhận được thư của anh gửi tới, hỏi thăm tình hình, động viên, chỉ bảo thêm những điều có thể xảy ra trong chiến dịch... Dẫu là vậy, vẫn khốn khó thay, lo âu thay - cái mà hồi còn bên tuyên huấn khu ủy được nghe: “Nguyễn Chí Trung là người khắc nghiệt” có lẽ là ở chỗ này chăng? Chuyến đi thực tế đầu tiên của tôi là về Quảng Đà - một trong những chiến trường khốc liệt nhất của Khu 5. Vẫn nghĩ, ai đó trong ban sẽ đi cùng. Không ngờ, Nguyễn Chí Trung chỉ nói ngắn gọn: “Mỗi người có một nhiệm vụ, cứ đi rồi quen. Đoạn đầu có giao liên dẫn đường”. “Không còn giao liên thì làm sao ạ?”-“Phải tự hỏi, tự tìm lấy thôi”. Tôi đã hao tổn biết bao sinh lực trên con đường mới mẻ, dằng dặc ấy. Suốt mấy ngày đêm liền chui rúc ở rừng để tìm được đến cái đơn vị cần đến: Tiểu đoàn Đặc công 91 của Tỉnh đội Quảng Đà. Tôi đã thấm thía thế nào là sống và công tác ở môi trường quân đội. Bởi lẽ đó, sáng tác đầu tiên của tôi là một truyện ngắn mà tư liệu chủ yếu là sự lạc đường. Lạc lúc đi, lạc lúc về. Đến nỗi đã về đến căn cứ Quân khu bộ rồi còn lọt vào giữa một bãi chông. Hoảng quá, giơ súng ngắn “đòm” ba phát chỉ thiên để có người đến dẫn. Nhưng dù sao cũng rất cảm ơn sự rèn giũa này. Những chuyến đi sau, một mình, cứ nhẹ nhàng như không.

Ở Nguyễn Chí Trung có một đặc điểm dễ nhận thấy: Rất tình cảm, nhưng cũng rất rắn đanh; rất nguyên tắc, nhưng cũng rất không nguyên tắc.

Sau chuyến đi chiến dịch đầu tiên của ba tân binh, chi bộ họp và quyết định từ nay mỗi hướng đi ít nhất có hai người của cơ quan, có tình huống xảy ra còn đỡ đần nhau. Không biết vô tình hay cố ý, đồng chí Phó bí thư đã cho họp chi bộ và ra nghị quyết này khi Bí thư Nguyễn Chí Trung đi công tác vắng. Chiến dịch năm 1973-một chiến dịch lớn, báo hiệu trận thắng oanh liệt mùa xuân năm 1975, Nguyễn Chí Trung lại phân công mỗi người đảm nhận một hướng. “Truyền thống của cơ quan ta là tự rèn luyện, tự đảm đương công việc, có tính độc lập...”. Thường khi anh đã nói vậy, đã quyết vậy thì khó lòng xoay ngược lại. Sẽ tiếp tục phân tích, thuyết phục bằng được. Một đồng chí đảng viên trong cơ quan từ tốn lên tiếng: “Nhưng nghị quyết chi bộ là không để ba đồng chí mới vào đi công tác một mình”. “Thật à! Nghị quyết lúc nào? Sao tôi không biết?”. Khi đụng đến nghị quyết, anh mềm như bún. Đó cũng là bí quyết để ngăn chặn những việc làm “quá khích” của anh.

Trong chiến dịch năm 1973, tôi cùng đi với Nguyễn Chí Trung. Cũng chỉ là đi một hướng. Chiến dịch nổ ra, mỗi người sẽ bám các đơn vị khác nhau. Tôi theo Sư đoàn 304 của bộ, đánh Thượng Đức. Anh đi với chủ lực Quân khu 5 đánh Nông Sơn. Đêm trước ngày ra trận, tôi trằn trọc không ngủ được. Tôi nghĩ về Nguyễn Chí Trung. Không biết giờ này anh ở đâu, làm gì? Chính trị viên tiểu đoàn mở đài. Công tắc vừa đánh “tách” đã vang giọng đọc rất tha thiết, rất trầm hùng của buổi phát thanh văn nghệ. Nghe được một đoạn, tôi nhận ra ngay đó là bài ký Khi dòng sông ra đến cửa của Nguyễn Chí Trung. Bài ký tiên đoán một cách hào sảng, vững chắc những gì cơn bão lớn của dân tộc sắp xảy ra. Khát khao và hy vọng. Niềm tin tất thắng bừng chói. Thử thách và chiến công. Điều kỳ lạ là bài ký được đọc trong khi trận đánh lớn vô cùng khốc liệt sẽ xảy ra ngày hôm sau. Không biết lúc đó anh Nguyễn Chí Trung có nghe đài không? Đến sau này tôi cũng chưa hỏi lại anh...

Trận đánh Thượng Đức đã không diễn ra như mọi người mong đợi. Còn nhớ, chiều hôm trước trận đánh, tôi cắt tóc cho trung đoàn trưởng-trung đoàn chủ công. Mắt ông nheo nheo chỉ về phía Thượng Đức: “Nói gì thì nói, thằng này không chịu nổi đâu. Thời gian dứt điểm sẽ sớm hơn dự định”. Rồi ông lại chỉ về phía Nông Sơn: “Thằng ấy mới gay go...”. Ông giải thích: “Không phải vì nó khó hơn thằng Thượng Đức mà là vì quân địa phương bì sao với quân của bộ”. Tôi lặng lẽ không nói gì, nhưng bụng nghĩ: “Thì ra các anh đánh giá quân của bộ và quân của quân khu khác nhau đến thế cơ đấy...”.

Trung đoàn trưởng của tôi bị thương nặng ngay trong buổi sáng hôm ấy. Ngồi ở hầm chỉ huy, ông tức điên khi các mũi, các hướng báo về không mũi nào, hướng nào đột được vào Thượng Đức. Ông bỏ máy chạy ra ngoài hầm và bị pháo trong Thượng Đức quét, bẹp gí, mảnh đạn găm khắp người, chân không nhúc nhích nổi. Quân đoàn quyết định tổ chức lại lực lượng tấn công lần hai, vẫn không xong. Thương vong quá nhiều. Sư đoàn trưởng buông thõng máy điện thoại khi nghe tin lần này bộ đội vẫn không vào được... Trong khi đó, Nông Sơn dứt điểm ngon lành. Sau trận đánh Nông Sơn, Nguyễn Chí Trung vừa đi vừa chạy về quân khu báo cáo tình hình rồi ơi ới gọi công vụ đi.

- Đi đâu thủ trưởng?

- Thượng Đức, nhanh lên!

- Nhưng em không biết đường?

- Tớ biết, đường ở miệng mình chứ!

Công vụ Liêu đã kể lại chuyến đi khủng khiếp đó. Một chuyến đi bão táp. Liêu đã khóc tu tu khi trên đường công binh cắm bảng: “Có nhiều mìn-cấm đi”. Nhưng Nguyễn Chí Trung cứ đi. Liêu hoảng quá. Anh lo cái thân thủ trưởng mình là chính nên giả đò lăn đùng ra rừng run cầm cập. Đấy cũng là cách để ngăn chặn sự mạo hiểm của thủ trưởng mình. Nguyễn Chí Trung bảo: “Anh thương em lắm, nhưng ở lại đợi em thì muộn mất. Tình hình rất phức tạp đang diễn ra ở Thượng Đức. Thôi anh đi trước, em cứ nghỉ cho qua cơn rồi đi sau nhé”. Đương nhiên, nằm một chặp, công vụ Liêu cũng phải bò dậy đi theo. Nguyễn Chí Trung đến Thượng Đức lúc các đồng chí chỉ huy quyết định đánh Thượng Đức lần ba. Anh không vào chỗ quân đoàn, sư đoàn mà ra ngay nơi chiến sự đang xảy ra.

- Này anh kia. Điếc à. Pháo bắn thế mà nghênh ngang - Một đồng chí chỉ huy tiểu đoàn pháo của 304 nói.

- Tôi là phái viên cấp trên đây! Các anh đặt pháo thế này hèn gì không đánh được. Chuyển sát vào nữa đi. Càng sát càng đỡ thương vong. Cho pháo bắn thẳng vào mấy cái lô cốt kia kìa. Còn tần ngần gì nữa, làm đi...

Không thể không chấp hành cái lệnh ấy. Đồng chí này nghĩ đấy là ý kiến cấp trên.

Nguyễn Chí Trung lại chạy đến tiểu đoàn bộ binh chỗ mở cửa không được:

- Mở cửa chỗ này bộ đội phơi áo ở hàng rào là phải. Không được đâu, mở chỗ đằng kia kìa, nghe rõ chưa. Tôi là phái viên cấp trên đây!

Mọi người ngơ ngác nhưng không thể không làm. Ông ta là phái viên lại coi bom đạn như cái rơm cái rác thế kia.

Khi trận đánh dứt, tôi đã có mặt ngay ở Thượng Đức và được nghe bộ đội kể lại những điều trên. Tất nhiên, không một ai biết người phái viên kiên cường ấy, quyết liệt ấy là ai. Ở cuộc họp cán bộ do sư đoàn triệu tập, một cán bộ tuyên huấn cho biết người phái viên đó là một nhà văn, nhà báo. Sư trưởng Lê Công Phê biểu dương người không biết tên, biết mặt ấy và trách cứ cán bộ sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn đã không làm được như anh ta. Ông đề nghị tìm cho bằng được để tặng huân chương...

Phần tôi, bỗng ứa nước mắt vì xúc động, vì tự hào về thủ trưởng của mình. Tôi cũng vội vàng đi tìm, nhưng tìm sao được. Ngay sau trận đánh, “thầy trò anh đã dốc thẳng một lèo về quân khu bộ”. Theo thời gian hợp đồng với Bộ tư lệnh Quân khu, anh đã trễ mất một ngày.

Nguyễn Bảo - Nguyễn Trí Huân