Đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ sinh ra tại làng Mỹ Hòa, tổng Mỹ Hòa, nay thuộc xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Năm 1934, đồng chí học tại Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (nay là Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế), sau đó được giữ lại trường. Bắt đầu từ đây, Huỳnh Ngọc Huệ gặp những người bạn chí cốt, đó là Nguyễn Kim Thành (tên thật của nhà thơ Tố Hữu), đồng chí Đào Duy Dzếnh. Cũng trong năm 1937, đồng chí được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh hoạt tại chi bộ ghép giữa Trường Quốc học Huế và Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế cùng với các đồng chí Tố Hữu, Trần Tống.

Về sự kiện này, trong hồi ký Nhớ lại một thời của mình, đồng chí Tố Hữu ghi: “Do tinh thần hăng hái hoạt động tuyên truyền trong thanh niên, và có thể do có những bài thơ được đăng trên Báo Dân, Báo Thế giới của Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Hà Nội, tôi được kết nạp Đảng tháng 4-1937. Người giới thiệu tôi là anh Trần Tống, bạn học hơn tôi 3 tuổi, vào Đảng trước tôi một năm”. Một điều trùng hợp, đồng chí Trần Tống cũng quê ở Đại Lộc với đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ. Sau khi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Tố Hữu được sinh hoạt trong cùng chi bộ với đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ. Đây được xem là điểm bắt đầu cho tình bạn cảm động giữa hai người cộng sản. Mặc dù trước đó, Huỳnh Ngọc Huệ đã tích cực hoạt động trong phong trào thanh niên tại Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế, còn đồng chí Tố Hữu hoạt động trong phong trào thanh niên Trường Quốc học Huế, nhưng từ đây, hai người được hoạt động trong một tổ chức đảng do đồng chí Trần Tống làm Bí thư chi bộ.

leftcenterrightdel

Chân dung đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ. Ảnh tư liệu

Với những hoạt động sôi nổi, Tố Hữu, Huỳnh Ngọc Huệ đã nằm trong tầm theo dõi của mật thám Pháp. Vì vậy, tháng 4-1939, Tố Hữu bị bắt, giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế). Sau đó, đồng chí bị đày đi nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị). Tháng 4-1941, chúng đưa đồng chí vào nhà tù Quy Nhơn, sau đó đày lên Đăk Glei. Còn đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ, để tránh bị mật thám theo dõi, đã lánh vào Diêu Trì, Bình Định. Tuy nhiên tại đây, vào tháng 4-1940, đồng chí bị địch bắt và chuyển về nhà lao Thừa Phủ, bị kết án một năm tù giam. Sau đó, đồng chí bị đày lên Đăk Glei trước đồng chí Tố Hữu (khoảng đầu năm 1940).

Trên đường bị đày lên Đăk Glei, mặc dù rất mệt song Tố Hữu vẫn tỉnh táo, ngâm nga mấy câu: Đường lên xứ lạ Kon Tum/ Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao/ Thông reo bờ suối rì rào/ Chim chiều chiu chít, ai nào kêu ai? Đây cũng chính là những câu đầu trong bài thơ Tiếng hát đi đày mà Tố Hữu tặng người bạn Huỳnh Ngọc Huệ.

Sau khi bị đày lên Đăk Glei, Tố Hữu gặp được những đồng chí, đồng đội của mình. Trong hồi ký, đồng chí viết: “Nhưng sự đời cũng kỳ lạ. Tôi những tưởng Đăk Glei là một chốn hoang vu, ma thiêng nước độc ở cái xó rừng núi hẻo lánh này. Nào ngờ xe vừa đỗ bên đường liền có mấy anh chạy đến. Có một người ôm hôn tôi, cầm tay, vỗ lưng cười ha hả. A! Chú mày lên đây rồi! Chào nhà thơ! Tôi dụi mắt, nhìn kỹ xem ai vậy. Thấy ngay một người vạm vỡ, đầu hói, trán cao, miệng rộng và đôi mắt nhìn tôi vô cùng thân thiết. Té ra đó là anh Lê Văn Hiến. Vâng, anh Hiến yêu quý, tác giả của Ngục Kon Tum mà tôi quen năm xưa ở Đà Nẵng. Bên cạnh anh là đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ, người thợ máy học Trường Bách Nghệ ở Huế cùng chi bộ với tôi năm 1937 và còn bao nhiêu anh khác nữa”. 

Tuy nhiên lúc này, phong trào cách mạng ở bên ngoài gặp nhiều khó khăn. Trước những đợt khủng bố dã man của kẻ thù, nhiều cơ sở bị lộ, nhiều đồng chí đảng viên kiên trung của ta bị địch bắt, tra tấn, tù đày. Tình thế này yêu cầu bằng mọi cách phải xây dựng lại cơ sở, nhất là vùng nông thôn, vùng núi. Phải vượt ngục. “Có ai hiểu nỗi hờn ghê gớm/ Trên mắt người trông với núi sương/ Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó/ Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm đường? Nhất định thế, tôi sẽ vượt khỏi cái trại tập trung khốn kiếp này…”. Đó là suy nghĩ và quyết tâm của Tố Hữu.

Và, từ quyết tâm ấy, đồng chí Tố Hữu đã bàn bạc với người bạn Huỳnh Ngọc Huệ: “Mày với tao về Quảng Nam tìm lại các mối rồi gây dựng dần phong trào”. Cả hai thống nhất, sau đó bàn kế hoạch và được các đồng chí Lê Văn Hiến, Chu Huy Mân, Nguyễn Duy Trinh giúp sức. Tuy nhiên, khó khăn nhất là tìm đường đi lối về, tránh bị địch phát hiện bắt trở lại. Đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ đã gặp riêng Tố Hữu và nói: “Tao thuộc đất Quảng Nam, quê tao. Thôi đi Đông khó lọt. Hai đứa mình cứ nhắm hướng Bắc mà đi, cũng đến”.

Thống nhất kế hoạch, hai người chuẩn bị cho chuyến vượt ngục. Họ sẽ cải trang thành người dân tộc Cơ Tu. Huỳnh Ngọc Huệ được phân công sang bên bản Đăk Bla kín đáo dò hỏi đường đi. Còn Tố Hữu lo sắm các đồ cần thiết: Chăn, quần áo, dao rựa và một đùm muối… Huỳnh Ngọc Huệ sang Đăk Bla về nói: “Họ bảo về Giằng (Quảng Nam) chỉ dăm bảy ngày đường, có lối rừng đi dễ, chẳng cần ai dẫn”.

Sau khi chuẩn bị xong, sáng sớm 14-3-1942, hai đồng chí vẫn đi làm như những ngày bình thường, rồi sau đó lẻn vào rừng. Sau hơn 20 ngày đêm trong rừng Trường Sơn với Đọt lau, rau má, vải xanh/ Đói lòng hát khúc quân hành vẫn vui, về đến làng Rô, bên dòng Đăk Mi, Huỳnh Ngọc Huệ và Tố Hữu được già làng cho ăn ngủ. Qua một đêm, hai người tính đường về xuôi.

Già làng nói như báo hiệu một nguy cơ nào đó: “Ở đây gần đồn Giằng, khách muốn về lúc nào cũng được”. Nghe nói đến đồn Giằng, các ông đã rùng mình, phải nhanh chóng đi thôi! Sáng hôm sau, cô con gái của già làng đã dậy sớm chuẩn bị hai bọc xôi và dẫn hai ông băng qua khu rừng rậm, ra đến đường cái thì gặp một toán người buôn. May mắn người toán trưởng này lại giúp đỡ và trả tiền đò để hai ông về Đại Lộc. Ngồi trên thuyền không ngủ được, nhớ lại những ngày đường rừng vừa qua, Tố Hữu nói với Huệ: “Chúng mình cũng liều thật, may mà không bị hổ vồ, rắn cắn và chết đói. Càng không ngờ đồng bào dân tộc làng Rô tốt bụng thế, có lẽ họ không biết mình là tù trốn chăng? Còn toán người đi buôn thật dễ sợ, đáng ngờ, nhưng ông toán trưởng ấy rõ ràng biết mình là cộng sản mà hết lòng bảo vệ, giúp đỡ, cho cả tiền đi đò mà không đòi hỏi gì. Thật không biết được lòng người, tưởng là gian mà lại hào hiệp vô cùng. Mình cũng thật bậy, vội vã ra về mà quên hỏi tên ông ta. Biết bao giờ mới gặp lại làng Rô và ông bạn quý báu này?”.

Về Đại Lộc, hai người chia tay, Huỳnh Ngọc Huệ ra Đà Nẵng tìm và xây dựng lại cơ sở, còn Tố Hữu lên làng Thừa Bình, quê nhà đồng chí Trần Tống. Lúc này, Trần Tống còn ở trong nhà đày Buôn Ma Thuột...

Năm 1973, trong chuyến công tác vào Nam, từ Đắc Tô qua Quảng Nam, nhà thơ Tố Hữu đã tìm về Bến Giằng, hỏi đường về làng Rô nơi mình và Huỳnh Ngọc Huệ vượt ngục năm 1942. Qua trò chuyện với cụ già, nhà thơ Tố Hữu nghẹn ngào khi hay tin già làng từng nuôi giấu mình là già Đễ đã mất lâu rồi, còn cô con gái là Đỡ cũng qua đời vì sốt rét. Còn Huỳnh Ngọc Huệ-người bạn vượt ngục cũng đã từ trần năm 1949, sau khi bị nhiễm trùng uốn ván.

Nghẹn ngào khi cảm xúc về làng Rô ùa về, nhớ ơn già làng Đễ và cô con gái, nhớ về cuộc vượt ngục cùng với người bạn Huỳnh Ngọc Huệ, nhà thơ Tố Hữu ghi lại bằng những câu thơ trong bài thơ Nước non ngàn dặm, trong đó có đoạn:

     Nhớ thương bạn, lại bùi ngùi

Nhớ làng Rô, nhớ người nuôi năm nào

     Ghé thăm, lòng xót xa sao!

Bến sông lửa cháy, bom đào bãi lau

      Hỏi già, già mất, còn đâu

Hỏi em, em đã từ lâu chết rồi!

     Ôi! Làng Rô nhỏ của tôi

Cao cao ngọn núi, chiếc nôi đại bàng

     Trăm năm, ta nhớ ơn làng

Cánh tay che chở bước đường gian nguy

    Thương em, cô gái sông My

Nắm xôi đưa tiễn anh đi qua rừng

     Anh đi, làng hỏi thăm chừng

Làng xưa, anh vẫn nhớ từng người xa

     Hôm nay như trở lại nhà

Bữa cơm dưa muối cũng là liên hoan

     Non cao rực rỡ ánh vàng

Đêm rằm vằng vặc bến Giằng trăng lên…

Sau này, khi nhắc về Huỳnh Ngọc Huệ, nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: “Ở Đăk Glei cũng như ở Huế, tôi được biết Huỳnh Ngọc Huệ là đồng chí có tinh thần cách mạng kiên cường, tính tình trung hậu, chất phác, chân thành và ngay thẳng với đồng chí, bạn bè, là người cộng sản trung thành mẫu mực”.

Đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ (1914-1949) là chiến sĩ cộng sản kiên trung, có nhiều đóng góp cho phong trào cách mạng. Đồng chí nhiều lần bị địch bắt, tù đày tại: Nhà lao Thừa Phủ (Huế), nhà ngục Đăk Glei (Kon Tum), nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội)... Tháng 3-1945, ra tù, đồng chí tham gia hoạt động cách mạng ở Đại Lộc và TP Đà Nẵng, là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí từng giữ các chức vụ: Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy, đại biểu Quốc hội khóa I, Phó bí thư Liên khu ủy 5. Đồng chí hy sinh ngày 27-4-1949, tại Quảng Ngãi. Đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

LÊ NĂNG ĐÔNG