Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, từ những gì tai nghe mắt thấy, Trịnh Văn Cấn đã chịu ảnh hưởng thời cuộc và hình thành lòng yêu nước, căm thù giặc, điều sau này đã khiến ông kiên quyết đánh Pháp, trở thành vị thủ lĩnh lừng danh.
Trịnh Văn Cấn bị bắt đi lính khố xanh từ khi còn rất trẻ. Thời gian đồn trú tại Thái Nguyên, ông buộc phải cầm súng đi đàn áp nghĩa quân Yên Thế. Năm 36 tuổi (1917), khi chuyển về đóng quân tại tỉnh lỵ Thái Nguyên, ông giữ chức đội nhất trong lực lượng lính khố xanh nên được gọi là Đội Cấn, mang “số lính 71”.
Trước khi cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra, trong trại giam ở tỉnh lỵ có 211 tù nhân, phần lớn là chiến sĩ của các phong trào: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Khởi nghĩa Yên Thế... Đặc biệt, tại nhà tù Thái Nguyên, thực dân Pháp giam giữ nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến, Ủy viên Quân vụ của Việt Nam Quang Phục hội, do cụ Phan Bội Châu đứng đầu. Khi thực dân Pháp bắt tay với người Nhật đàn áp Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, nhiều thanh niên yêu nước bị đàn áp dã man, bị trục xuất về nước, phải chịu cảnh tù đày. Từ những gì trông thấy, Đội Cấn đã cảm nhận được chỉ có thể vùng lên đánh đuổi thực dân Pháp mới có thể tìm được tự do cho nhân dân, giải phóng ách xiềng gông nô lệ. Chế độ hà khắc của bè lũ thống trị đã khiến cho lòng căm phẫn của nhân dân, của tù nhân người Việt bị giam giữ ở Thái Nguyên lên đến đỉnh điểm. Đó cũng là mẫu số chung để Đội Cấn tập hợp đội ngũ những người cùng chí hướng để hành động.
    |
 |
Đội Cấn (bên trái) và Lương Ngọc Quyến, hai thủ lĩnh của cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên. Ảnh tư liệu |
Chí khí của hai người anh hùng Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến gặp nhau ở tấm lòng trung trinh với nước, quyết đánh đổ ách nô lệ, giành tự do cho nhân dân. Hai vị thủ lĩnh đã quyết định tiến hành cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên vào đêm 30, rạng sáng 31-8-1917. Ngay lập tức, quân khởi nghĩa đã làm chủ được tỉnh lỵ. Đội Cấn cùng nghĩa quân nhanh chóng giết được tên Giám binh Noel, chỉ huy Trại lính khố xanh và một số tên tay sai đắc lực như Phó quản Lạp, Đội Hành. Sau đó, nghĩa quân được lệnh phá nhà tù, giải phóng các tù nhân, phối hợp với trại lính trong đánh ra, ngoài đánh vào tiêu diệt địch. Tiếp đó, Đội Giá mở kho quân lương lấy quần áo, đạn dược trang bị cho nghĩa quân rồi tiếp tục đánh chiếm Dinh Công sứ, Nhà dây thép, Sở Lục lộ, Tòa án, Nhà đoan, Kho vũ khí... Chiều 31-8-1917, nghĩa quân tấn công vào Kho bạc và thu được gần 72.000 đồng bạc Đông Dương.
Chỉ trong một đêm, binh sĩ yêu nước Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến đã đồng tâm nổi dậy làm chủ tỉnh lỵ, tuyên bố thành lập Quang Phục quân do Trịnh Văn Cấn làm “Đại đô đốc”, Lương Ngọc Quyến làm “Quân sư”, phong hàm các sĩ quan. Nghĩa quân Thái Nguyên đã tuyên bố đặt quốc hiệu là “Đại Hùng”, định quốc kỳ nền vàng với 5 ngôi sao đỏ (cờ Ngũ tinh) cùng 4 chữ “Nam binh phục quốc” đã nêu cao ý chí và mục đích của những người cầm súng giết giặc.
Một ngày sau khi làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên, Đội Cấn đã đưa ra hai bản tuyên ngôn thể hiện hùng tâm tráng chí mạnh mẽ.
Đêm 31-8, rạng ngày 1-9-1917, nhân dân Thái Nguyên được nghe bản Tuyên ngôn thứ nhất: “... Ta chiêu tập những anh em có tinh thần tự do độc lập, có nhiệt tâm yêu nước thương nòi... Hôm nay ta bắt đầu khôi phục lấy tỉnh Thái Nguyên, lá cờ 5 ngôi sao đã kéo lên phấp phới trên kỳ đài, ta tuyên bố Thái Nguyên độc lập...”.
Sáng 1-9-1917, chỉ huy nghĩa quân tuyên bố bản Tuyên ngôn thứ hai:
“... Từ 30 năm qua, xứ sở chúng ta hoang vắng như sa mạc, những người tài trí phải sống buồn tủi, cuộc đời tối tăm... Hàng chục triệu đồng bào đang rên xiết như bị ném vào đống lửa hoặc xuống nước sâu... Tất cả những tai họa mà trời giáng xuống đầu chúng ta đã kết thúc từ ngày hôm nay. Để khỏi phụ lòng mong đợi khí thiêng và sông núi, đồng bào hãy cố gắng hơn nữa để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại, hiên ngang kéo lên ngọn cờ 5 ngôi sao của chúng ta trên khắp năm châu...”.
Thực dân Pháp ở Hà Nội nhận được cấp báo đã cử Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương tức tốc đưa 2.000 quân, có pháo binh và xe thiết giáp yểm trợ lên đàn áp. 6 giờ ngày 2-9-1917, một đại đội bộ binh Pháp tiến công phòng tuyến Gia Sàng trên ngọn đồi bên trái đường dẫn đến tỉnh lỵ.
Cuộc chiến đấu giữa quân Pháp và quân khởi nghĩa diễn ra ác liệt. Hôm sau, ngày 3-9-1917, quân Pháp tăng cường thêm 120 lính, một đại đội sơn pháo, công binh, 150 lính khố đỏ tiếp tục tấn công nghĩa quân. Đến 23 giờ ngày 3-9-1917, Cai Mánh chỉ huy nghĩa quân bí mật rời công sự, táo bạo đánh vào đại bản doanh của địch, tiêu diệt và làm bị thương 34 tên, Giám binh De Martini bị tiêu diệt tại trận.
    |
 |
Nhà văn Phùng Văn Khai (người đứng) trao đổi với hậu nhân của cụ Đội Cấn. Ảnh: THU MINH |
Sau một tuần làm chủ tỉnh lỵ, trong thế so sánh lực lượng quá chênh lệch, đến trưa 5-9-1917, mặt trận của cuộc khởi nghĩa bị quân Pháp phá vỡ, Đội Cấn buộc phải rút quân ra khỏi thị xã Thái Nguyên, tiến hành một cuộc di chuyển vô cùng gian khổ qua các tỉnh: Vĩnh Yên, Phúc Yên. Trước sự truy lùng ác liệt của kẻ thù, nghĩa quân lại trở về Thái Nguyên vào tháng 10-1917. Lúc này, lực lượng nghĩa quân chỉ còn khoảng 40 người. Quân địch truy kích ráo riết buộc nghĩa quân phải chuyển lên đèo Nứa, Hoàng Đàm (Phổ Yên). Đội Giá và Đội Xuyên chuyển sang Yên Thế (Bắc Giang) xây dựng căn cứ. Đội Cấn cùng một số ít nghĩa quân cầm cự với giặc ở vùng núi Pháo (Đại Từ) và bị thương rất nặng ở chân, nhận thấy không còn khả năng chỉ huy cuộc khởi nghĩa, ông quyết định tự sát để giữ trọn khí tiết.
Cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên đã làm rung chuyển chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, làm chấn động dư luận Pháp và thế giới. Cuộc khởi nghĩa mặc dù thất bại nhưng đã viết thêm một trang sử oanh liệt chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của Đội Cấn và nghĩa quân còn sống mãi trong lòng nhân dân ta với những bài học lịch sử và thực tiễn quý báu cho sự nghiệp chống quân xâm lược.
Đã hơn 100 năm, cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên với vị thủ lĩnh tiêu biểu Trịnh Văn Cấn-Đội Cấn để lại những dấu son trong lịch sử. Thăm Đền thờ Đội Cấn-vị Đại đô đốc Quang Phục quân lừng danh khí tiết ở Thái Nguyên-đã khiến chúng tôi, những hậu nhân của đất nước trong buổi thanh bình thêm tỏ lòng tri ân sâu nặng với tiền nhân, đúng như đôi câu đối trong đền: Phục quốc chiến công xưa, Việt Nam sáng ngời danh tiết/ Non sông lưu Trịnh tướng, Thái Nguyên tỏ rạng anh hào.
NGUYỄN MINH THU