Sau quãng đường dài từ Cần Thơ xuống U Minh Thượng, chúng tôi như quên đi cảm giác mệt mỏi trong khung cảnh thiên nhiên yên bình, đẹp như tranh vẽ. “Vua rừng” Bành Văn Đởm giản dị giữa vườn cây cảnh xanh tốt, cạnh bên con kênh lộng gió. Chuẩn bị bước sang tuổi 88 nhưng ông Mười Đởm, Anh hùng Lao động, nguyên Giám đốc Vườn Quốc gia U Minh Thượng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Câu chuyện của ông ngược về những năm tháng chiến tranh, khi làm giao liên tại xã Nhân Khánh, huyện An Biên (trước thuộc tỉnh Rạch Giá, sau thuộc tỉnh Kiên Giang) thời chống Pháp rồi làm cơ sở mật, tham gia diệt ác phá kìm sau tập kết; được giao nhiệm vụ và phát triển từ công an ấp đến trưởng ban an ninh huyện An Biên và ủy viên an ninh tỉnh Kiên Giang. Những năm tháng gian khổ ấy, anh trai, hai người con và biết bao đồng đội của ông đã mãi mãi không về. Tay run run, ông mở tủ lấy chiếc khăn kỷ vật có thêu dòng chữ: “Ra đi giữ trọn lời thề/ Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương” của người con trai, liệt sĩ Bành Minh Hứng, y tá K50. Cùng với đó là lọ dầu có mảnh bom đã găm vào đầu người con gái Bành Thị Mứng mà ông cất giữ suốt hơn 40 năm qua. “Nhìn chiếc khăn và mảnh bom này, nhớ hai đứa ghê lắm!”- đôi mắt của người cha anh hùng ầng ậng nước…
Trồng tràm theo cách... Mười Đởm
Năm 1976, khi đang công tác ở công an tỉnh Kiên Giang, ông được điều về làm Giám thị Trại giam Kênh 7 (nay thuộc huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Vốn sinh ra và lớn lên giữa rừng U Minh, nay về phụ trách trại giam ngay cạnh bìa rừng, càng thông hiểu, ông càng trăn trở. Rừng thì xanh mát mắt, bạt ngàn mà người dân quanh rừng sao vẫn nghèo đói, túng quẫn. Lúc đầu, ông huy động lực lượng của trại giam để khai khẩn những vùng đất hoang hóa dày đặc lau sậy. Đích thân giám thị cùng hàng trăm phạm nhân ngày ngày vào rừng phát quang. Những cây sậy to bằng cổ tay người được thồ chở ra ngoài trại giam. Ông tổ chức lực lượng ngồi lựa từng loại sậy, bó lại chở đi bán cho các nhà máy giấy ở TP Hồ Chí Minh.
|
|
Anh hùng Lao động Bành Văn Đởm. |
Từ nguồn kinh phí này, ông mua giống cây tràm về trồng để gây rừng. Mà cách trồng tràm của ông Mười Đởm cũng đặc biệt, chẳng giống ai. “Mình có được học hành qua trường lớp gì đâu mà chủ yếu qua thực tiễn, rồi làm thí nghiệm, sau đó mới nhân rộng. Ban đầu, tôi cho dùng cơ giới để trục lau sậy, mà phải chọn thời điểm cuối mùa mưa, đến lúc chuyển mùa, ít mưa thì tổ chức gieo sạ. Lúc này, hạt tràm nằm trên đám lau sậy đã được sục như các tấm thảm thực vật. Đến cuối năm, nước hạ, thảm thực vật này phân hủy, cây tràm bám được vào đất và phát triển. Làm cách này, tỷ lệ cây sống rất cao mà chi phí lại thấp, chỉ khoảng 60-70% so với phương pháp truyền thống”- “vua rừng” chia sẻ. Trồng tràm theo cách của ông Mười Đởm, ròng rã trong khoảng 15 năm, hàng nghìn héc-ta tràm được trồng mới quanh U Minh Thượng.
Giải bài toán “vùng đệm”
Rừng trồng lên rồi nhưng ông Mười Đởm lại lo làm thế nào để bảo vệ được rừng. Khi ấy, dân rất nghèo. Những năm 80 của thế kỷ trước, dân cư ở đây thưa thớt, rừng ra tận sông Cái Lớn. Người dân thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu kiến thức nên phá sinh kế. Trong thời gian ngắn mà diện tích rừng U Minh Thượng bị phá nhiều hơn trong thời chiến tranh.
|
|
Một góc rừng U Minh Thượng. Ảnh:SƠN TIẾN. |
Trong hơn 40.000ha rừng U Minh Thượng thì hơn 8.000ha là vùng lõi, tức rừng nguyên sinh phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Được tổ chức tin tưởng, khi là Giám thị Trại giam Kênh 7, đến sau này là Trưởng ban quản lý rừng đặc dụng và phòng hộ U Minh rồi Giám đốc Vườn Quốc gia U Minh Thượng, ông Bành Văn Đởm tập trung giải bài toán kinh tế cho dân. Ông đề xuất và được giao là Trưởng ban dự án vùng đệm (là vùng bao quanh rừng nguyên sinh). Những hộ nghèo, không đất hoặc thiếu đất được đưa vào vùng đệm sinh sống. Mỗi hộ được cắt 4 đến 5ha đất, được ngân hàng cho vay vốn để sản xuất. Quanh mỗi hộ, nhà nước xẻ những con kênh nhỏ để đưa nước xổ phèn, rửa mặn, làm ao nuôi tôm cá, trồng cây, xóa nghèo.
Dự án phát triển kinh tế nông hộ vùng đệm U Minh Thượng mở ra là một bước đột phá lớn trong cách nghĩ, cách làm của những con người dám đổi mới và hành động. Ngân sách đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng một con đường láng nhựa dài hàng chục cây số len lỏi theo con đê ngày xưa. Hơn 3.000 hộ nghèo trong vùng được cấp gần 15.000ha đất rừng để phát triển kinh tế và giữ rừng. Rừng hình thành hai đê bao, gọi là đê bao trong và đê bao ngoài. Khu vực từ đê bao trong ra đê bao ngoài được chuyển đổi thành rừng sản xuất, tạo thành vành đai bảo vệ rừng.
Lúc đầu không phải người dân nào cũng đồng thuận, nhiều hộ không chịu đi, thậm chí còn kiện cáo khắp nơi. Thế là, ông lại cùng anh em làm dự án đến từng nhà giải thích, thuyết phục. Ông bảo, mình cũng xuất thân từ nông dân nên rất đồng cảm với bà con. Khi làm việc phải luôn “vị công” chứ không được “vị tư” và phải đặt vào hoàn cảnh, lợi ích cụ thể của người dân để giải quyết. Nếu như trước khi có vùng đệm, nơi đây được coi là “ổ nghèo” của huyện thì nay đời sống của bà con (thuộc hai xã Minh Thuận và An Minh Bắc của huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang) đã đổi thay hoàn toàn, nhiều nhà đã khá giả. Từ những phần đất của Nhà nước cắt cho, người dân trồng lúa, hoa màu, khóm, mía, chuối cho năng suất cao. Nhưng điều quan trọng là, cùng với kinh tế vùng đệm phát triển, đời sống bà con đi lên thì rừng cũng được bảo vệ tốt hơn. Kể cả sau đợt cháy rừng lịch sử năm 2002, đến nay, rừng U Minh Thượng vẫn đang hồi sinh mạnh mẽ, dự án phát triển kinh tế dân cư vùng đệm tiếp tục được phát huy hiệu quả trong thực tế. Trước đây, mỗi năm ngân sách phải cứu đói cho hơn 1.000 hộ nhưng hiện tại vùng đệm U Minh Thượng không còn hộ đói, hộ nghèo giảm từ 60% xuống còn khoảng 12%. Hiện tại, trong vùng đệm có gần 1.000 hộ dân đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi, nhiều hộ có mức thu nhập cao, thành các triệu phú, tỷ phú. “Nhiều người dân ngày xưa phản đối dự án, nay đã thực sự nhìn thấy kết quả. Đủ ăn, đủ mặc, con cái học hành đàng hoàng, nhà cửa khang trang, họ mới hiểu”- ông trải lòng.
Sinh ra, lớn lên, gắn bó với rừng, tuổi xế chiều ông vẫn chọn ngay nơi bìa rừng U Minh Thượng để sống. Với ông, rừng là máu thịt, là cuộc đời…
Đại tá Công an nhân dân Bành Văn Đởm (Mười Đởm) sinh năm 1930. Trong gần 30 năm làm Giám thị Trại giam Kênh 7, rồi Trưởng ban Quản lý rừng đặc dụng và phòng hộ U Minh và Giám đốc Vườn Quốc gia U Minh Thượng, ông có công đầu trong việc khai phá vùng đất chua phèn U Minh Thượng, đưa dân nghèo vào phát triển kinh tế và giữ rừng. Với thành tích đặc biệt xuất sắc thời kỳ đổi mới, năm 2000, ông được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. |
TRẦN HOÀNG - PHAN TÙNG