Bức thư kỷ vật

Khi 16 tuổi, Trần Phước Tới đã là “Dũng sĩ diệt Mỹ”, được ra Bắc học tập. Cha và các bác, cô, chú ruột hy sinh nên người quan tâm, lo lắng cho anh trên mỗi bước đường chiến đấu là chú Trần Lương (hay còn gọi là Trần Phước Lương, Năm Lương), quê ở xóm Viêm Tây, xã Điện Thắng (nay thuộc khu phố Viêm Tây 1, phường Điện Thắng Bắc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Năm 1970, đang học ở Nam Sách (Hải Dương), Trần Phước Tới nhận được thư tay kèm theo một tấm ảnh chân dung của chú Năm Lương. Lời thư tràn ngập yêu thương. Người viết không hề nghĩ đến bản thân đang cận kề ranh giới giữa sự sống và cái chết mà chỉ lo cho đứa cháu còn nhỏ tuổi đã phải xa gia đình. Với một niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, chú dặn dò: “Con ráng học cho giỏi sau này về xây dựng quê hương”.

Từ ấy, cậu sinh viên Trần Phước Tới luôn mang bức thư và tấm ảnh bên mình như nguồn động viên to lớn. Được cử đi học đại học ngành luật ở Liên Xô (trước đây), anh mang theo bức thư qua nước bạn. Thấy tấm ảnh chú mình quá bé, anh dùng máy ảnh chụp lại và in ra kích thước lớn hơn. Ngày giải phóng, từ nước ngoài về thăm quê hương, người cháu đau xót khi biết chú Năm Lương đã hy sinh. Tấm ảnh anh giữ trở thành tấm ảnh thờ độc nhất của gia đình chú. Bức thư của chú mà anh đem về, tiếc rằng qua mấy trận lũ lụt đã không còn nguyên vẹn.

Ông Trần Lương hy sinh khi con gái Trần Thị Pháp mới ở tuổi 13. Hơn 50 năm trôi qua, cô không quên bất cứ kỷ niệm nào về cha mình. Là chị lớn của 3 em nhỏ, trong đó có cậu em út mới 2 tuổi, Pháp già dặn trước tuổi và rất hiểu chuyện. Nhiều lần, cô được cha tin tưởng cử đi đưa thư, làm liên lạc cho các chú. Cha thường dặn dò cô: “Con cố gắng cùng mẹ chăm sóc các em. Sau này nước nhà thống nhất, ba sẽ bù đắp cho con”.

leftcenterrightdel

Những đứa con liệt sĩ trong dòng họ Trần Phước sau ngày giải phóng. Ảnh do gia đình nhân vật cung cấp

Hình ảnh thân thương nhất về cha với cô đó là những buổi chiều chạng vạng, khi tình hình trong làng yên ắng, ông tranh thủ tạt về nhà. Tay bồng đứa nhỏ nhất, tay dắt đứa kế rồi quàng cả mẹ già đi dạo quanh vườn, thủ thỉ chuyện trò. Chiều 22-1-1972, về sớm hơn thường lệ, nắm tay cô con gái lớn, ông dặn dò tỉ mỉ rồi nói: “Con trèo lên gác lấy cho ba chục gói thuốc lá khô. Chuyến này ba đi công tác bên tuyên huấn, chắc lâu mới về”. Tối đó, chừng 8 giờ, cô con gái lòng dạ nóng như lửa đốt khi nghe tiếng súng nổ dữ dội hướng cha đi ở làng An Thanh, có lẽ như đằng mình bị phục kích.

Bà Trần Thị Pháp nghẹn ngào kể: “Sáng sớm hôm sau, chị Hai Tuần, đồng đội của ba tôi, chạy đến nhà nói rằng ba tôi chắc đã hy sinh trong trận hôm qua cùng với 7 người nữa. Quân địch trói chung lại và chôn tập thể để không cho ai đến lấy thi thể. Tôi nghe chị nói mà rụng rời tay chân, không dám khóc to vì còn bà nội và các em nhỏ. Tôi nhờ chị trông nhà giúp rồi chạy lên khu đất trồng cây thuốc lá, nơi mẹ tôi và bà con tưới thuốc sớm. Bọn lính có mặt khắp nơi nên tôi giả vờ nói: “Em ở nhà đau chết rồi”. Nghe vậy, mẹ tôi và mọi người hiểu ý, bỏ gàu chạy về nhà. Tất cả ào ra đường cái vì biết tin chúng đào thi thể ba tôi và đồng đội lên đem phơi nắng để thị uy”.

Người làng đứng ra xin, bọn hội đồng xã miễn cưỡng cho các gia đình chôn cất liệt sĩ ở Gò Phật. Các thi thể khác đều có người thân nhận dạng. Nhưng với đồng chí Năm Lương khó có thể nhận ra, bởi một viên đạn găm trên mí mắt làm máu loang lổ quánh lại với đất bùn. Lúc này, bà Ba Đường, vợ đồng chí Năm Lương, nói đưa con gái lớn đến đối chiếu, bởi Pháp giống cha ở một ngón bên bàn chân trái có đến hai cái móng. Nhờ vậy mà mọi người đã tìm ra danh tính người hy sinh. Mặc địch phong tỏa, dân làng vốn yêu quý đồng chí Năm Lương đã tụ tập rất đông, thắp hương, đưa tiễn người cán bộ xã trung kiên. Tấm quan tài vốn để dành cho mẹ già, nay dùng chôn cất người con trai. Đồng chí Trần Lương hiện an nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Điện Bàn.

Nén đau thương để nuôi con

Đồng chí Trần Lương, Phó bí thư Đảng ủy xã Điện Thắng hy sinh là tổn thất to lớn với quê hương và gia tộc Trần Phước. Ít ai biết rằng, ở xóm nhỏ Viêm Tây của xã có dòng họ Trần Phước đều là “cộng sản nòi”. Gia đình Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Dục (hay còn gọi là Hương Dục, gọi theo tên con đầu) có 4 người con đều hy sinh, trong đó 2 người là Ủy viên Huyện ủy Điện Bàn. Chị em dâu với bà là Ngô Thị Điềm (Hương Điềm) có 2 người con ngã xuống vì đất nước. Bọn địch biết “xóm cộng sản” hết người trụ cột nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu nham hiểm là diệt sạch các “hạt giống đỏ”. Năm 1973, chúng lùa hết đàn bà, trẻ em, người già xuống hầm và chuẩn bị ném lựu đạn thủ tiêu. May mắn có ông Bảy Lang, người uy tín trong làng, kịp thời cản lại.

leftcenterrightdel

Bà Trần Thị Pháp bên di ảnh của cha-liệt sĩ Trần Lương. 

Suốt những năm chiến tranh, 4 bà góa Đặng Thị Tần, Đặng Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Đường, Nguyễn Thị Kính (là con dâu của hai bà Hương Dục, Hương Điềm), vợ của các liệt sĩ Trần Phước Thìn, Trần Phước Hân, Trần Lương, Trần Phước Nhiên, sống quây quần trong 4 căn nhà nhỏ với mảnh sân chung. Bà con gọi là “xóm bà góa”. Họ nương tựa vào nhau, thờ chồng, nuôi con. Cha không còn, mẹ thường xuyên bị địch bắt bớ, đánh đập vì liên quan đến cộng sản, những đứa trẻ họ Trần Phước đã trải qua những tháng ngày gian khó, ác liệt. Bà Trần Thị Pháp nhớ lại: “Sau khi ba mất, mẹ tôi biền biệt đi buôn thuốc, buôn gạo lo cái ăn cho cả nhà 6 người. Mấy đứa em tôi đang tuổi lớn, đói quá, cứ chực chờ chút cơm cháy còn sót lại sau bữa trưa, nhiều lúc cắn cả chị khi không kiếm đủ cái ăn cho chúng. Thương lắm mà tôi không biết làm sao, chỉ mong chờ nước nhà thống nhất”.

Trung tướng Trần Phước Tới, con liệt sĩ Trần Phước Thìn, vẫn nhớ như in ngày ông về quê sau giải phóng. Nhà cửa xác xơ sau nhiều lần bị địch phóng hỏa. Ruộng vườn tiêu điều vì bom mìn. Đàn em ruột và con các chú gần chục đứa ai cũng gầy còm, thiếu ăn, quần áo vá chằng chịt. Ông mua nguyên cây vải hoa nhờ người may cho các em cả trai lẫn gái. Bức ảnh ngày ấy được giữ cho đến tận bây giờ để ghi nhớ về một thời gian khó...

HỒNG VÂN