Đổi mới tư duy về bảo vệ Tổ quốc
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) thông qua tại Đại hội VII của Đảng vào tháng 6-1991 đã chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.
Những định hướng cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong Cương lĩnh năm 1991 đã được cụ thể hóa qua các kỳ đại hội Đảng và được bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình đất nước, nhiệm vụ cách mạng. Cũng qua các kỳ đại hội Đảng và hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, tư duy đổi mới và phát triển lý luận về bảo vệ Tổ quốc ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ, hoạch định các mục tiêu chiến lược, đồng thời đề ra những giải pháp căn bản, cụ thể để lãnh đạo kịp thời, sâu sát, toàn diện. Chỉ hơn 20 năm, từ năm 2003 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IX, XI và XIII đã tổ chức 3 lần hội nghị thảo luận, đánh giá, tổng kết và xây dựng, thống nhất ban hành Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Triển khai đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có các quan điểm, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 30-7-1987 về nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nghị quyết đã xác định nguyên tắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ, xác lập cơ chế: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu, cơ quan quân sự làm trung tâm phối hợp hiệp đồng, chỉ huy trưởng quân sự chỉ huy thống nhất LLVT thuộc quyền. Đến ngày 22-9-2008, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 28-NQ/TW về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ra các Nghị định số: 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007; 02/2016/NĐ-CP ngày 5-1-2016; 21/2019/NĐ-CP ngày 22-2-2019 về khu vực phòng thủ. Trên cơ sở hiệu quả xây dựng các khu kinh tế, quốc phòng theo Quyết định số 68/CT-HĐBT ngày 20-2-1985 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) và Quyết định số 150/ĐUQSTW ngày 1-8-1998 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2009/NĐ-CP ngày 7-5-2009, được thay thế bằng Nghị định số 22/2021/NĐ-CP ngày 19-3-2021 của Chính phủ về khu kinh tế-quốc phòng. Hiệu quả của các khu kinh tế-quốc phòng đã góp phần xây dựng tiềm lực khu vực phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột ngay từ thời bình, trong xây dựng đất nước.
Ngày 20-7-2005, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” (Nghị quyết 51). Đây là một dấu ấn sâu sắc trong đổi mới tư duy của Đảng về bảo vệ Tổ quốc. Cùng với Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị khóa VI quy định các đồng chí bí thư tỉnh ủy, thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện đồng thời là bí thư đảng ủy quân sự cùng cấp; bí thư tỉnh ủy, thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham gia đảng ủy quân khu..., Nghị quyết 51 đã tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và LLVT, bảo đảm thống nhất trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Cụ thể hóa việc thực hiện các nghị quyết và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Đảng ta, trong năm 2018, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành: Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng... Hội nghị Trung ương 8 khóa XII của Đảng đã đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, thống nhất ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”... Những chiến lược trên cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện thể chế, các thiết chế quốc phòng đã khẳng định sự đổi mới, phát triển tư duy, lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng.
|
|
Hệ thống vũ khí, khí tài hiện đại trang bị cho Quân đội. Ảnh: Phóng viên và CTV |
Hoàn thiện thể chế, thiết chế quốc phòng
Từ Đại hội Đảng lần thứ VII đến nay, Đảng ta luôn xác định tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, tháng 4-1992, Quốc hội khóa VIII đã ban hành Hiến pháp năm 1992 và được Quốc hội khóa X sửa đổi, bổ sung năm 2001. Đến tháng 11-2013, Quốc hội khóa XIII ban hành Hiến pháp năm 2013, đã thể chế hóa, cụ thể hơn về chế định bảo vệ Tổ quốc và quốc phòng, an ninh.
Trung tướng Nguyễn Kim Khoa, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa XIII, cho biết: “Đến trước năm 1992, các luật, pháp lệnh thể chế hóa hoạt động quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc còn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ. Khi Đảng ta tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, công tác xây dựng pháp luật về quốc phòng, an ninh được chú trọng, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tôi là đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII; lần lượt là Ủy viên, Phó chủ nhiệm và Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, đã quan tâm và nỗ lực tích cực chỉ đạo, tiến hành xây dựng luật, pháp lệnh, phấn đấu hoàn thiện và đồng bộ luật pháp về quốc phòng, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam và LLVT nhân dân vững mạnh trong giai đoạn mới”.
Từ năm 1992 đến nay, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành gần 100 luật, pháp lệnh, nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh và liên quan về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Trong đó có: Luật Nghĩa vụ quân sự (năm 1994, 2005, 2015); Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 1999, 2014, 2024); Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Dân quân tự vệ (năm 2009, 2019); Luật Biển Việt Nam năm 2012; Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013; Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015; Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018; Luật Lực lượng dự bị động viên năm 2019; Luật Biên phòng Việt Nam năm 2020... Ngày 13-11-2020, Quốc hội khóa XIV ban hành Nghị quyết số 130/2020/QH14 “Về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”, tạo cơ sở pháp lý để Quân đội ta triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quan trọng này và khẳng định nước ta là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Tiếp tục thể chế hóa tư duy mới và đường lối, quan điểm về quốc phòng, an ninh của Đảng, hiện nay chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung nhiều luật, pháp lệnh về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. “Hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh là cơ sở để xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tiến lên hiện đại; xây dựng LLVT nhân dân, nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong khu vực phòng thủ vững chắc”, Trung tướng Nguyễn Kim Khoa khẳng định.
Xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, hiện đại
Xuyên suốt các kỳ đại hội Đảng, nhất là từ sau Đại hội VI đến nay, Đảng ta đều nhất quán quan điểm: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Triển khai các nghị quyết lãnh đạo của Đảng, từ năm 1991 đến nay, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng đã làm tốt vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước, tổ chức quản lý, xây dựng Quân đội nhân dân với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Ngày 28-3-2021, tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (nay là Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) đã nêu những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam. Trong đó khẳng định: “Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt của LLVT nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bao gồm lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Quân đội nhân dân đã được Đảng và Bác Hồ xác định: Quân đội ta là Quân đội cách mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Chức năng cơ bản đó đã được khẳng định và phát huy trong gần 80 năm qua”...
Với tư duy mới về xây dựng Quân đội nhân dân, từ sau Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, Quân đội ta có bước điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, biên chế; tiến hành giải thể và chuyển nhiệm vụ của một số đơn vị bộ đội chủ lực; thành lập các khu kinh tế-quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Bộ Quốc phòng tổ chức lại nhiều cơ quan, đơn vị và thành lập mới một số đơn vị như: Cục Tác chiến điện tử, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 1992; Cục Cảnh sát biển Việt Nam, năm 1998 (nay là Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam); Trung tâm Khoa học kỹ thuật và Công nghệ quân sự, Bộ Quốc phòng, năm 1999 (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam); Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 2012 (nay phát triển thành Bộ tư lệnh Tác chiến không gian mạng trực thuộc Bộ Quốc phòng); Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam, năm 2014 (nay là Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam)... Năm 1995, Bộ đội Biên phòng trở về trực thuộc Bộ Quốc phòng và năm 2011, Ban Cơ yếu Chính phủ được Bộ Nội vụ bàn giao về Bộ Quốc phòng quản lý. Việc phát triển các lực lượng chuyên môn, chuyên ngành và bàn giao cho Bộ Quốc phòng quản lý là sự cụ thể hóa chủ trương xây dựng Quân đội vững mạnh, đa ngành, đa lực lượng, tiến lên hiện đại.
Để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức mạnh chiến đấu cần có vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến và tự chủ sản xuất vũ khí, khí tài trang bị cho Quân đội. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 05-NQ/TW (khóa VII, năm 1993), Nghị quyết số 27-NQ/TW (khóa IX, năm 2003), Nghị quyết số 06-NQ/TW (khóa XI, năm 2011) và Nghị quyết số 08-NQ/TW (khóa XIII, năm 2022), về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng. Các kỳ đại hội Đảng bộ Quân đội và Quân ủy Trung ương (trước đây là Đảng ủy Quân sự Trung ương) cũng đã ban hành nhiều nghị quyết lãnh đạo nhằm xây dựng, hiện đại hóa Quân đội, như các nghị quyết chuyên đề về: Công tác giáo dục, đào tạo cán bộ; công tác huấn luyện, hậu cần, kỹ thuật, khoa học, công nghệ, môi trường; đổi mới phương thức bảo đảm tài chính; công tác đối ngoại quốc phòng... Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015 đã xác định ưu tiên xây dựng 5 lực lượng, quân chủng tiến thẳng lên hiện đại, là: Phòng không-Không quân, Hải quân, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ thuật và Tác chiến điện tử. Hiện nay có thêm lực lượng Cảnh sát biển được xác định xây dựng hiện đại.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ Quân đội, cùng các Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17-1-2022 của Bộ Chính trị khóa XIII và Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, Bộ Quốc phòng đã xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện. Đến năm 2025, Quân đội ta được điều chỉnh tổ chức bảo đảm tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm; đồng thời tiếp tục tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược phù hợp với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới.
“Sau một năm thành lập, Quân đoàn 12 với tinh thần đoàn kết, quyết tâm cao, nỗ lực khắc phục khó khăn, triển khai chặt chẽ, nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương, sự chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng; tổ chức thực hiện toàn diện các nội dung công tác, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, Quân đoàn tổ chức thành công cuộc diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng (ĐT-23); tham gia diễn tập tác chiến khu vực phòng thủ TP Hà Nội (HN-24); diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ... Qua đó khẳng định chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực sự là lực lượng cơ động chiến lược, tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới”, Thiếu tướng Trương Mạnh Dũng, Tư lệnh Quân đoàn 12 khẳng định.
GIANG HỒNG CƯƠNG