Năm 1950, sau gần 5 năm trường kỳ kháng chiến, ta đã có những thắng lợi quan trọng nhưng vẫn phải chiến đấu “trong vòng vây” do biên giới chưa được khai thông để có thể giao lưu, tiếp nhận sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng chủ trương tranh thủ thời cơ giành thắng lợi lớn về quân sự nhằm làm thay đổi cục diện chiến tranh, với quyết định mở Chiến dịch Biên giới (hay còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2).

Kế hoạch chiến dịch được Bộ Tổng Tham mưu xây dựng từ rất sớm, trong đó dự kiến cuối tháng 5 sẽ mở màn. Tuy nhiên, đây là một chiến dịch tiến công quy mô lớn, có ý nghĩa chiến lược, đòi hỏi sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng về mọi mặt, từ huy động tập trung lực lượng, công tác hậu cần, bảo đảm đến luyện tập nâng cao trình độ tác chiến cho bộ đội. Ngày 16-9-1950, Chiến dịch Biên giới mở màn.

Ông Nguyễn Binh Chuẩn, người trực tiếp tham gia xây dựng kế hoạch (sau này là Trưởng ban Tham mưu Mặt trận Đông Khê) cho biết, việc chọn hướng tiến công trong Chiến dịch Biên giới được bàn thảo rất nhiều. Lúc bấy giờ, trong lãnh đạo có ý kiến đề nghị nên mở chiến dịch ở hướng Đồng bằng Bắc Bộ, tuy nhiên, Bộ Tổng Tham mưu không chấp nhận vì địch ở Đồng bằng Bắc Bộ rất mạnh, có khả năng cơ động nhanh và có ưu thế hơn hẳn về hỏa lực, phương tiện, trang bị kỹ thuật, do đó đã đề nghị với trên mở chiến dịch vào hướng rừng núi là phù hợp nhất. Sau khi cân nhắc kỹ mọi yếu tố, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định chọn khu vực Cao Bằng, Lạng Sơn để mở màn chiến dịch vì vừa có địa thế hiểm yếu, vừa thuận tiện để mở thông cửa ngõ liên lạc với bên ngoài. Địch ở đây mạnh, nhưng một khi chiến dịch giành được thắng lợi thì sẽ tác động rất lớn, thất bại của địch càng thêm đau, dễ dẫn đến hoảng loạn và suy sụp dây chuyền.

leftcenterrightdel

 Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát trong Chiến dịch Biên giới, năm 1950. Ảnh tư liệu

Ngày 31-7-1950, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chọn Cao Bằng làm mục tiêu mở màn chiến dịch. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu, cân nhắc mọi yếu tố và đi trinh sát thực địa, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chọn Đông Khê thay vì Cao Bằng. Ông Cao Pha, nguyên Trưởng ban Quân báo Chiến dịch Biên giới nhớ lại: “Đầu tháng 8, tôi nhận nhiệm vụ tháp tùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi trinh sát thực địa cứ điểm Cao Bằng. Trong quá trình nghiên cứu, Đại tướng đặc biệt lưu tâm đến tính kiên cố của pháo đài Cao Bằng. Nơi đây có sở chỉ huy, xung quanh được bố phòng chặt chẽ, lại có cả sân bay, bến bãi... thuận tiện cho quân nhảy dù; chưa kể muốn tiến công vào đây thì phải vượt qua hai con sông lớn. Đêm đó nghỉ lại một bản nhỏ bỏ hoang ở ngoại ô, trong khi mọi người ngủ thì Đại tướng cứ đi đi lại lại, tay bóp trán suy nghĩ rồi bất ngờ anh gọi tôi dậy trao đổi về cứ điểm Cao Bằng. Anh hỏi: “Theo cậu, khả năng bộ đội ta có thể đánh thắng một cứ điểm tương đương một trung đoàn địch không?”. Tôi biết anh lăn tăn và có chút hoài nghi về tính chắc thắng khi quyết định đánh Cao Bằng. Một cuộc thảo luận, trao đổi về lựa chọn mục tiêu mở màn chiến dịch diễn ra ngay tại thực địa. Giữa lúc mọi người đang tập trung thảo luận rôm rả, chúng tôi nhận được tin Bác Hồ lên mặt trận. Tin đó đã gây xúc động mạnh mẽ trong anh em cán bộ chúng tôi. Sự có mặt của Bác là nguồn động viên, cổ vũ lớn đối với các lực lượng tham gia chiến dịch và nhân dân Cao-Bắc-Lạng. Điều này càng cho thấy ý chí, quyết tâm của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh cũng như ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch”.

Trở về sau chuyến thị sát tình hình thực tế, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hội ý với Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và cán bộ trong Bộ chỉ huy chiến dịch. Ông chỉ ra những khó khăn lớn nếu đánh Cao Bằng, đồng thời khẳng định cần phải thay đổi mục tiêu tiến công cho trận mở đầu. Theo ông, ta sẽ đánh vào Đông Khê vì nơi đây quân địch yếu hơn. Đông Khê là mắt xích cực kỳ quan trọng trên phòng tuyến biên giới của địch; mất Đông Khê, chắc chắn địch sẽ đưa quân đi ứng cứu. Đây sẽ là cơ hội tốt để ta thực hiện phương châm “đánh điểm, diệt viện”. Phương án này được trao đổi, thảo luận dân chủ và được Đảng ủy Mặt trận cùng các cố vấn Trung Quốc nhất trí cao. Phương án đánh Đông Khê cũng nhanh chóng được báo cáo với Bác Hồ và được phê chuẩn.

Chiều 11-9-1950, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch triệu tập Hội nghị cán bộ để nghe Bác huấn thị, đồng thời phổ biến quyết tâm và phương án tác chiến mới. Ông Cao Pha nhớ lại: “Hôm đó, Bác căn dặn chúng tôi phải có quyết tâm giành chiến thắng ngay trong trận mở màn, phải giữ bí mật, đoàn kết, hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị, đặc biệt là đoàn kết giữa quân và dân... Kết thúc cuộc gặp, Bác nói: Trận này nhất định phải thắng”. Thay mặt cán bộ dự hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xúc động hứa với Bác và Trung ương Đảng “kiên quyết anh dũng chiến đấu để giành thắng lợi cho chiến dịch lịch sử này”.

Ngày 13-9, Bác rời Sở chỉ huy chiến dịch ở Tả Phày Tử chuyển đến Sở chỉ huy mới ở Nà Lạn. Để bảo đảm an toàn và giữ gìn sức khỏe cho Bác, Bộ chỉ huy chiến dịch đã bố trí một chiếc xe Jeep để đưa Bác đi, nhưng Người từ chối với lý do đi bộ vừa rèn luyện sức khỏe, vừa gặp và động viên được nhiều bộ đội, dân công. Đến Nà Lạn đúng thời điểm bộ đội ta đang chuẩn bị tiến công cụm cứ điểm Đông Khê, Người chỉ thị: “Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu”; đồng thời chỉ rõ: “Đông Khê không lớn nhưng rất quan trọng, vì mất Đông Khê thì Cao Bằng hoàn toàn bơ vơ. Địch buộc phải cho quân ứng cứu, bộ đội sẽ có cơ hội đánh vận động”. Người còn vạch rõ ý đồ tác chiến của ta là “nhử thú dữ vào tròng” để “khép vòng lưới thép” tiêu diệt chúng”. Trong thời gian ở Sở chỉ huy Nà Lạn, Bác yêu cầu Bộ chỉ huy chiến dịch bố trí, sắp xếp để Người trực tiếp đi quan sát trận địa.

Ông Cao Pha kể: “Chúng tôi đã chuẩn bị rất chu đáo, bố trí cán bộ quân báo trực tiếp hướng dẫn Bác đi, mang theo ống nhòm và một bi đông nước đun sôi. Bác xắn quần lên cao, chống gậy, leo núi thoăn thoắt làm cho đoàn chúng tôi mướt mồ hôi mới theo kịp. Bác ngồi trên điểm cao tập trung quan sát địa hình xung quanh và hướng tầm mắt về phía Đông Khê, Cao Bằng. Tôi rụt rè nói: “Thưa Bác, hôm nay trời sương mù nhiều, tầm nhìn hạn chế, quan sát hơi khó”. Bác bảo: “Anh em ngồi trên đài quan sát đêm gió lạnh, chú phải cho anh em mặc đủ ấm”.

Để đánh Đông Khê, ta đã tập trung lực lượng ưu thế hơn gấp nhiều lần địch về bộ binh và pháo binh. Rạng sáng 16-9-1950, trận mở màn chiến dịch bằng đòn tiến công cụm cứ điểm Đông Khê bắt đầu. Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt, sau hai ngày tiến công, ta làm chủ hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê. Lúc bấy giờ có ý kiến đề nghị đang đà thắng nên đưa lực lượng xuống giải phóng luôn Thất Khê, song Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy địch mất Đông Khê, hệ thống phòng thủ của chúng bị chọc thủng một mắt xích quan trọng thì sớm hay muộn chúng cũng sẽ cho quân chui ra khỏi công sự, tung lực lượng đi giải tỏa. Vì vậy, Bộ chỉ huy chiến dịch kiên quyết bác bỏ ý kiến đề nghị đó và kiên trì chờ đánh viện binh địch.

Hơn 10 ngày chờ đợi, cuối cùng viện binh địch cũng xuất hiện. Đêm 30-9, Binh đoàn Le Page từ Thất Khê kéo lên và sáng 3-10, Binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút về. Cả hai lọt vào cung đường “tử địa” Cốc Xá-Điểm cao 477 trên tuyến Đường số 4. Nắm được âm mưu của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch đã kịp thời chỉ thị cho các mũi hình thành thế bao vây, chia cắt, kiên quyết không cho chúng hợp quân. Ngày 8-10, Binh đoàn Le Page bị xóa sổ, Le Page cùng ban tham mưu của y bị bắt;  Binh đoàn Charton cũng chịu chung số phận.

Ngày 14-10, Chiến dịch Biên giới kết thúc. Chỉ bằng đòn đánh hiểm vào Đông Khê, ta đã giải phóng được hoàn toàn tỉnh Cao Bằng và tiêu diệt toàn bộ quân địch tại đây. Trong chiến dịch này, bộ đội ta đã đánh vận động thành công, kéo địch ra ngoài công sự mà đánh, thực hiện xuất sắc phương châm “đánh điểm, diệt viện”. Kết quả tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai có ý nghĩa chiến lược đã làm đảo lộn hình thái trên chiến trường có lợi cho ta. Hệ thống phòng tuyến Đường số 4 mà kẻ địch dày công xây dựng suốt 3 năm bị phá vỡ, âm mưu phong tỏa biên giới bị phá sản, địch bị ta bao vây về chiến lược từ phía Bắc.

TRẦN VĨNH THÀNH