Một bản lĩnh lớn, một nhân cách cương trực
Là người của “cửa Khổng, sân Trình”, Chu Văn An chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Khổng Tử-bậc “vạn thế sư biểu” (bậc thầy của muôn đời) với phương châm “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (học không biết chán, dạy không biết mệt) đề cao tinh thần tận tâm, trách nhiệm cao cả của người thầy trong việc tự học, tự tích lũy tri thức để có thể làm tốt nhất việc dạy. Sau khi thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), Chu Văn An không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học.
Trường Huỳnh Cung của ông cho phép bất cứ ai cũng có thể vào học. Có thể khẳng định, với tư tưởng vì hạnh phúc của dân, vì tương lai nền học vấn nước nhà, ông là người đầu tiên mở trường học tư thục. Theo sử sách ghi lại, có đến 3.000 học trò theo học thầy Chu, có cả học trò ở xa, từ Kinh Bắc, Sơn Nam, châu Hồng... “đến học chật cửa”. Có trò đỗ cao như Lê Quát và Phạm Sư Mạnh đều đỗ Thái học sinh đời Vua Trần Minh Tông, sau đó cùng làm quan đến chức Nhập nội hành khiển... Quan điểm dạy học của Chu Văn An đi theo Nho giáo với “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, tức dạy cả “lễ”, cả “văn” (tiên học lễ, hậu học văn), dạy về sự cung kính, trung hậu, tri thức, gia phong, ứng xử... Tư tưởng, tài năng, đức độ của ông có ảnh hưởng lớn đến xã hội đương thời. Ông cũng là người đặt nền móng cho việc giảng dạy khoa học, nền nếp bằng việc soạn giáo trình.
Danh tiếng của thầy Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được triều đình quan tâm. Vua Trần Minh Tông mời ông làm Tư nghiệp (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám, trông coi việc học cả nước. Thời gian đầu, ông dạy học cho Thái tử Trần Vượng-vị vua tương lai. Sau khi Trần Vượng lên ngôi (Vua Trần Hiến Tông) năm 1329, ông được chuyên tâm công việc ở Quốc Tử Giám. Ông biên soạn “Tứ thư thuyết ước”, tóm tắt, khảo luận, khái quát, kết tinh 4 bộ sách Nho giáo kinh điển (“Luận ngữ”, “Mạnh tử”, “Đại học”, Trung dung”) làm giáo trình. Như vậy, quan điểm dạy học của Chu Văn An vừa đi theo kinh điển Nho gia vừa có những sáng tạo riêng, không lệ thuộc, càng không phụ thuộc. Là người tâm huyết với chính sự, ông cùng các rường cột triều đình như Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn hết lòng giúp vua, giúp nước.
    |
 |
Tranh vẽ chân dung nhà giáo Chu Văn An.
|
Ðời Vua Trần Dụ Tông (trị vì từ năm 1341 đến 1369), chính sự rối ren, quyền thần nhũng nhiễu, Chu Văn An dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần. Vua không nghe, ông xin từ chức, về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh, nay thuộc phường Chu Văn An, TP Hải Phòng. Nhiều lần vua vời về làm việc nhưng ông từ chối. Dù đương chức hay về ở ẩn, ông vẫn được triều đình, nhân dân, sĩ phu đương thời rất mực quý trọng. Ông về với bậc thầy Khổng Tử năm Thiệu Khánh thứ nhất, đời Trần Nghệ Tông (năm 1370). Nhớ công lao của bậc thầy lớn, vua cho làm lễ tế, đặt tên thụy là Văn Trinh, đưa vào phối thờ ở Văn Miếu, tôn kính như những bậc thánh hiền của đạo học.
Một nhà thơ có bản sắc riêng
Là người khí tiết và khí khái, cương trực và mạnh mẽ, với sở học công phu, trí tuệ mẫn tiệp, Chu Văn An chỉ “trung quân” với vị vua tốt. Ông làm thơ không nhiều nhưng rõ một tiếng lòng ưu tư, xa vắng, đậm nét hoài cổ. Thơ có phần yếm thế nhưng nói đúng được hoàn cảnh lịch sử, thời đại và con người ông. Bài “Miết trì” là tiêu biểu: “Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm/ Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau/ Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào/ Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về”.
“Miết trì” nghĩa đen là ao ba ba, cũng là tên một chiếc ao trong dãy núi Phượng Hoàng (nơi Chu Văn An về ở ẩn). “Ao” là một ẩn dụ chỉ thời thế, cá đua nhau bơi lao xao trên mặt ao, chỉ bọn tiểu nhân đắc ý. Không thấy “rồng”, tức không thấy vua đâu. Vua đi vắng hay đang bận việc gì khác, thậm chí có thể chỉ là bù nhìn? “Núi vắng”, “hạc” không trở về. Hay những bậc quân tử không chịu ra giúp dân, giúp nước. Bài thơ là tâm sự bất đắc chí, có lẽ được làm sau khi dâng “Thất trảm sớ” nhưng không được chấp nhận, đã cáo quan về ở ẩn...
Đau đáu một lòng vì triều đình yên ổn, vì dân, mong dân được học hành nhưng có phần bất lực. Với bản lĩnh ấy, trí tuệ ấy, ông từ quan về dạy học như là sự tất nhiên. Xã hội suy vi, nhân tài cũng như “bầy cá nhỏ”, hẳn nhiên ông nhớ tiếc về một thời vàng son: “Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất/ Nghe nói đến tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ” (“Miết trì”). Tấm lòng ấy vẫn vẹn nguyên lửa đỏ tâm huyết (chứ không phải có người nói “nguội lạnh như tro đất” rồi). Thế nên nghe nói về “tiên hoàng” (bậc vua thuở trước), đành chỉ biết lau nước mắt mà thôi. Có thể vì vậy mà trong “ngôi lầu” thơ, Chu Văn An luôn hướng về phía tự do: “Giấc mộng công danh đà chán ngắt/ Thú chơi hồ hải hãy vung vênh/ Đi về đủng đỉnh chi còn lụy/ Thẳng cánh âu bay bể rộng thênh” (“Giang đình tác”).
Bậc “vạn thế sư biểu”
Đến nay, nhiều nghiên cứu giáo dục thế giới ngạc nhiên khi từ thế kỷ 14, một nhà giáo Việt Nam đã đưa ra chân lý mang tính hiện đại, phổ quát: “Ta chưa từng nghe nước nào coi nhẹ sự học mà khá lên được”. Ngoài thể hiện tầm quan trọng của giáo dục đối với sự hưng vong của mỗi quốc gia, còn gửi tới nhân loại thông điệp thế giới cần hòa bình. Chỉ có vậy, con người mới được tôn trọng, sự học mới diễn ra đúng nghĩa. Với quan niệm ấy, tâm huyết cả đời Chu Văn An đều dành cho giáo dục, dạy trò trước là biết lễ nghĩa, sau là biết “thi thư” (“Kinh Thi” và “Kinh Thư”-hai bộ sách Nho giáo kinh điển). Sách “Đại Việt sử ký” kể, học trò khi đã làm quan, về thăm, chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc chỉ bảo. Không chỉ là nhà giáo, là một đại quan, Chu Văn An còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, giúp dân chữa bệnh.
Có ảnh hưởng sâu rộng trong chính giới, học giới, văn giới và nhân dân, dư luận đương thời gọi Chu Văn An là “sao Bắc Đẩu”, là “sao Khuê” tỏa sáng tri thức, đạo lý. Sau này, nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét về ông: “Làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời”.
    |
 |
| Đền thờ Chu Văn An tại phường Chu Văn An, TP Hải Phòng. Ảnh: HOÀI LAN |
Một người đáng kính như vậy tất yếu đi vào huyền thoại. Có hẳn chùm sự tích về thầy Chu Văn An. Có tích kể rằng, có một chàng trai trẻ vẻ ngoài tuấn tú đến xin học. Nghe trò nói về tiểu sử là một thủy thần-một con giao long, ông bảo đã hiếu học thì ai cũng có thể học. Trò này thường đi từ đầm đến trường. Một hôm, bạn nhìn thấy trên chỏm đầu chàng trai có cánh bèo tấm nên cứ băn khoăn mãi. Năm ấy, trời làm đại hạn. Thầy hỏi các trò có cách gì giúp dân, trò thủy thần thưa: “Trái lệnh thiên đình sẽ bị trừng phạt. Nhưng con xin làm”. Trò ấy lấy hai nghiên mực, một đen, một đỏ, mài mực đầy nghiên, ngửa mặt đọc thần chú, cầm bút lông chấm mực, vẩy lên trời. Mực đỏ vung lên thành sấm chớp, mực đen vung lên thành mây đen kéo đến. Mưa rơi tầm tã...
Như đám mây ngũ sắc thần bí, huyền thoại đã nâng thầy giáo Chu Văn An bay vào không gian thiêng của tâm thức hiếu học dân tộc. Đó là một cách tôn vinh người thầy kiệt xuất, có trò là bậc thần thánh, dám trái ý trời, theo ý thầy, để vì dân. Trò ấy chết trong huyền thoại nhưng lại sống mãi trong văn hóa dân gian. Tựa vào huyền thoại này, giới Nho học tôn vinh thầy bằng đôi câu đối, thờ ở nơi Văn Trinh yên nghỉ: “Mây thiêng nghiên mực bay lên, ngọn bút thuận thiên theo lẽ phải/ Mưa lành nghĩa ân đổ xuống, cánh đồng màu mỡ nở hoa đời”.