Những đôi mắt không ngủ

Ngay từ buổi đầu thành lập, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã phải đối mặt với thù trong giặc ngoài. Chúng ta vừa củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, vừa phải xây dựng tổ chức quân sự, phát triển LLVT trên quy mô cả nước để chống đế quốc, thực dân xâm lược. Nhiệm vụ này đặt ra một loạt vấn đề về nắm địch, nắm ta, thống nhất tổ chức chỉ huy, đào tạo cán bộ, bảo đảm vũ khí, lương thực... Trong đó, việc tổ chức cơ quan tham mưu chiến lược và lực lượng tình báo nắm địch trở thành yêu cầu khách quan cấp thiết. Ngày 25-10-1945, Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu thành lập. Đồng chí Hoàng Minh Đạo (tức Đào Phúc Lộc, được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân năm 1998), được chỉ định là Trưởng phòng. Phòng có nhiệm vụ: Tổ chức điều tra về quân sự, ngoại giao, chính trị, kinh tế của ngoại quốc và bọn phản động trong nước.

Ông Diêu Nhật Thăng, hơn 90 tuổi, đang sinh sống tại Quảng Ninh, từng có thời gian công tác bên cạnh đồng chí Hoàng Minh Đạo cho biết: “Tôi từng được nghe anh Đạo kể rằng, ngày mới thành lập, quân số của Phòng Tình báo do anh phụ trách có khoảng 10 đồng chí đến nhận nhiệm vụ. Sau đó, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp thân mật trò chuyện với anh em và yêu cầu: Các đồng chí phải là “những đôi mắt không ngủ”, luôn nắm chắc địch tình, không để bị động, bất ngờ”. Còn trong thư gửi Hội nghị tình báo tháng 3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh: “Tình báo là tai mắt của Đảng, của Quân đội, trách nhiệm của nó rất quan trọng. Binh pháp nói: “Biết mình, biết địch, trăm trận đều thắng. Muốn biết địch, thì phải có tình báo giỏi. Muốn khỏi địch biết ta, cũng phải có tình báo giỏi...”.

leftcenterrightdel

 Các Anh hùng LLVT nhân dân, cán bộ lão thành tình báo quốc phòng Việt Nam và đại biểu tại buổi gặp mặt 50 năm ngày truyền thống, tháng 10-1995. Ảnh: QUỐC TÌNH

Bấy giờ, hình thức nắm địch theo kiểu trinh sát là chủ yếu. Tuy nhiên, bằng cách riêng, tình báo của ta đã cài cắm được cơ sở vào làm thư ký tại các công sở của Pháp ở một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương. Nhờ đó, ta đã nắm được âm mưu, ý đồ của Pháp để đối phó trong trường hợp có xung đột xảy ra. Phòng Tình báo phối hợp với Nha Công an, đập tan âm mưu của bọn phản động Quốc dân đảng cấu kết với thực dân Pháp định làm đảo chính; khám phá và tiêu diệt hang ổ của chúng ở phố Ôn Như Hầu, Hà Nội. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Phòng Tình báo tổ chức các hoạt động phục kích, bắt một số kỹ sư người Pháp để khai thác, nắm được bản thiết kế sân bay Cát Bi, cài người vào sân bay Gia Lâm để chuẩn bị cho đội quyết tử vào đánh sân bay...

Sau Hội nghị tình báo toàn quốc lần thứ nhất, để củng cố tổ chức, nâng cao trình độ năng lực và hiệu quả công tác cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tình báo trong cả nước, liên tục nhiều lớp huấn luyện về nghiệp vụ tình báo, trinh sát và đào tạo tình báo viên đã được mở ở Trung ương và các địa phương. Đặc biệt, năm 1949, với sự ra đời của lực lượng trinh sát kỹ thuật  (TSKT), số lượng tin tức thu được tăng lên gấp bội, phục vụ kịp thời cho sự chỉ đạo, lãnh đạo của Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh.

Vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, các cán bộ tình báo Quân đội đã đem hết khả năng, góp phần phục vụ những yêu cầu cấp bách của Đảng và Quân đội, bảo vệ chính quyền cách mạng. Vừa xây dựng và chiến đấu, ngành tình báo đã đạt được thành tựu đáng kể, từng bước thống nhất về nhiệm vụ, tổ chức, tính chất và phương thức hoạt động trong phạm vi toàn quốc, là cơ sở để đặt nền móng cho các bước phát triển sau này: Trở thành cánh quân đặc biệt, hoạt động trong thầm lặng nhưng góp phần quan trọng làm nên những chiến thắng.

Thầm lặng lập công

Những năm kháng chiến, trong mọi trận đánh, chiến dịch đều có dấu ấn của lực lượng tình báo chiến lược. Nhờ những nguồn tin kịp thời, chính xác từ nội bộ địch, Bộ Chính trị và Bộ chỉ huy chiến lược của ta có thể đưa ra những chủ trương, sách lược mang tính đột phá, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến.

Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, lần đầu tiên Quân báo ra trận, tham gia phục vụ một chiến dịch tấn công với quy mô lớn của ta. Ở chiến dịch này, thành công lớn nhất của công tác nắm địch là đã kết hợp chặt chẽ giữa TSKT với trinh sát của đại đoàn và các đơn vị độc lập, các tỉnh đội, kịp thời cung cấp nhiều tin tức giá trị cho Bộ tư lệnh Mặt trận. Chiến dịch toàn thắng, ta tiêu diệt gọn Binh đoàn Charton và Lepage của Pháp, tạo bước nhảy vọt về chiến lược của cuộc kháng chiến. “Với chúng tôi, kỷ niệm đặc biệt sâu sắc trong chiến dịch này là việc đơn vị trinh sát chiến dịch đã trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ và đưa Bác Hồ an toàn lên đài quan sát chỉ huy Mặt trận Đông Khê”, Thiếu tướng Cao Pha, nguyên Cục trưởng Cục Quân báo, Trưởng ban trinh sát Chiến dịch Biên giới kể lại trong hồi ký.

leftcenterrightdel
 Đội ngũ trinh sát kỹ thuật những ngày đầu mới xây dựng tại Việt Bắc năm 1950. Ảnh tư liệu

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết định. Tổ chức tình báo của ta đã có nhiều chiến công, nổi bật là việc phát hiện kế hoạch chiến tranh Đông Dương mở rộng sang Lào và Campuchia của đối phương. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với những báo cáo chiến lược thu được từ nội bộ đối phương, ta kết hợp chặt chẽ giữa phương thức TSKT, trinh sát mặt đất của bộ với các đơn vị trinh sát của các đại đoàn và trung đoàn cùng các binh chủng, có sự phân công về phạm vi, có chiều rộng và chiều sâu để theo dõi địch trong một tập đoàn cứ điểm. Nhiều biện pháp nắm địch được hành động tổng hợp: Quan sát với tiềm nhập, phục kích bắt tù binh và bí mật đột nhập mục tiêu thu thập tài liệu. Các tổ trinh sát ngày đêm tiềm nhập điều tra và vẽ sơ đồ căn cứ địch. Đặc biệt, đêm 24-12-1953, phân đội trinh sát do đồng chí Trần Nhân phụ trách trong khi làm nhiệm vụ đã thu được 25 tấm bản đồ Điện Biên Phủ tỷ lệ 1:25.000 của địch thả dù xuống. Đây là tài liệu quý phục vụ kịp thời cho Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo chi tiết, chính xác kế hoạch tác chiến, hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh. Cũng nhờ sự kết hợp các phương thức nắm địch một cách sáng tạo và linh hoạt, dựa trên nguồn tin của lực lượng điệp báo và thực tế địch tăng cường lực lượng, củng cố tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ nhằm tạo ra cái bẫy để tiêu diệt chủ lực ta tại lòng chảo Điện Biên, đã phục vụ kịp thời cho Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch có cơ sở quyết định thay đổi phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” đem lại thành công rất to lớn cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt. Lực lượng tình báo quốc phòng Việt Nam nhanh chóng điều chỉnh tổ chức, mở rộng hoạt động vào miền Nam. Kết thúc 300 ngày tập kết, tình báo đã đưa vào miền Nam hàng trăm cán bộ điệp báo cùng với số cán bộ bám trụ tại địa bàn, tạo thành lực lượng đáng kể, nằm ở hầu hết thành phố và mục tiêu quan trọng trong vùng kiểm soát của địch. Bấy giờ, lực lượng điệp báo của Ban Tình báo chiến lược Xứ ủy Nam Bộ phần lớn đã hợp pháp hóa và hoạt động từ kháng chiến chống thực dân Pháp, nay được tăng cường thêm các lực lượng điệp báo mới xây dựng từ miền Bắc vào đã có nhiều cơ cán đi sâu leo cao với các lưới tình báo chuyên sâu về quân sự, chính trị và phản gián.

leftcenterrightdel
 Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 13, Trung đoàn 75 với thành tích phát hiện B-52 địch, góp phần vào Chiến thắng “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972. Ảnh tư liệu

Trong bối cảnh chính quyền ngụy Sài Gòn dồn sức đàn áp, ngăn chặn từ trong trứng nước mọi mầm mống kháng chiến, công tác tình báo càng trở nên quan trọng. Một số mạng lưới tình báo như: A20, H10-A22, H63, H67, A26 với những tên tuổi: Đinh Thị Vân, Nguyễn Hữu Trí, Đặng Trần Đức, Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Văn Minh, Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Văn Thương đã trở thành huyền thoại. Đó là những tập thể, cá nhân vừa giỏi nghiệp vụ, vừa kiên cường trong tư tưởng, đã chịu đựng và vượt qua muôn vàn áp lực vô cùng lớn. Nhờ có các lưới điệp báo và cơ cán đi sâu, leo cao như thế trong các cơ quan cơ mật của địch, nhiều tin tức chiến lược báo cáo về Quân ủy Trung ương được đánh giá cao như: Kế hoạch Staley Talor, Kế hoạch quân sự Hakin 1963, Kế hoạch McNamara 1964, Kế hoạch DA8 quân sự 1965, Kế hoạch xây dựng ngụy quân và tin tức về cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963 và Nguyễn Khánh năm 1964... Tình báo quốc phòng kịp thời thu thập các kế hoạch chiến lược cơ bản của Mỹ thực hiện trong từng năm, các cuộc hành quân, các biện pháp, thủ đoạn chiến lược, khó khăn và nhược điểm của Mỹ-ngụy và rất nhiều tài liệu quan trọng khác, góp phần vào thắng lợi của nhiều chiến dịch lớn...

TRƯỜNG SƠN