Bộ đội Việt-Mỹ là sản phẩm của sự hợp tác giữa Mặt trận Việt Minh với quân Đồng minh chống phát xít trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã coi phong trào cách mạng Đông Dương là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Bởi vậy, khi quân Nhật nhảy vào xâm chiếm Đông Dương, Đảng đã chủ trương hợp tác, giúp đỡ và cùng các lực lượng Đồng minh đánh phát xít Nhật.

Cuối năm 1944, một máy bay của không quân Mỹ từ Trung Quốc vượt biên giới vào Cao Bằng trinh sát (lúc này do quân Nhật kiểm soát) bị hỏng máy, viên phi công buộc phải nhảy dù và được du kích Cao Bằng cứu giúp đưa về căn cứ an toàn. Không những vậy, sau đó viên Trung úy, phi công William Shaw (W.Shaw) còn được ta cử người đưa trở lại căn cứ của lực lượng không quân Mỹ ở Trung Quốc. Ông Đàm Quang Trung (1921-1995), nguyên chỉ huy Bộ đội Việt-Mỹ từng kể rằng, lúc bấy giờ, để sổng viên Trung úy phi công Mỹ, Bộ chỉ huy quân Nhật tại Cao Bằng rất tức tối, lệnh cho binh lính lùng sục, kiểm soát gắt gao các cửa ngõ ra vào biên giới. Chính vì vậy mà quãng đường từ căn cứ tới biên giới chỉ chừng 50km, nhưng phải mất hơn nửa tháng, các chiến sĩ của ta mới đưa được phi công W.Shaw từ căn cứ lên đến một địa điểm nằm sát đường biên. Tại đây, W.Shaw may mắn được gặp Hồ Chí Minh. Gần một tháng W.Shaw luôn im bặt do trong nhóm đi cùng không ai biết tiếng Anh, nên khi được trò chuyện, trao đổi bằng tiếng Anh với Hồ Chí Minh, viên phi công hết sức hồ hởi và cởi mở. Sau cuộc gặp gỡ này, anh ta đã hoàn toàn bị thuyết phục. Ngay sau đó, W.Shaw đã mời Hồ Chí Minh đi cùng sang bên kia biên giới đến gặp đại diện lực lượng không quân Mỹ, lúc này đang đóng ở Côn Minh.

Nhận thấy đây là cơ hội tốt để có thể gặp lại một số cán bộ của ta đang ở Côn Minh, Hồ Chí Minh đã vui vẻ nhận lời. Tại Côn Minh, tướng Chennault, Tư lệnh Không đoàn 14, đại diện chỉ huy lực lượng không quân Mỹ tại Trung Quốc đã gặp Hồ Chí Minh bày tỏ lời cảm ơn về việc Việt Minh đã cứu và tận tình giúp đỡ W.Shaw trở về căn cứ an toàn. Viên Tư lệnh ngỏ lời được hợp tác với Việt Minh và trao tặng một số tiền cùng thuốc men. Hồ Chí Minh từ chối nhận tiền và chỉ nhận thuốc men; đồng thời bày tỏ những người cách mạng Việt Nam sẵn sàng giúp đỡ Đồng minh chống phát xít, ngược lại, Người cũng đề nghị Đồng minh giúp đỡ cách mạng Việt Nam đánh quân Nhật. Theo thỏa thuận giữa hai bên, Tướng Chennault đã cử Trung úy Charles Fenn liên lạc với Việt Minh để tổ chức cứu giúp phi công Mỹ bị bắn rơi ở Việt Nam.

Ngày 16-7-1945, nhóm sĩ quan tình báo thuộc lực lượng OSS mang biệt danh “Con nai” do Thiếu tá Thomas chỉ huy, nhảy dù xuống căn cứ địa Việt Bắc. Sau khi toán thứ nhất đáp xuống Việt Bắc thành công, OSS tiếp tục cử toán thứ hai. Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm và rất bận rộn nhưng vẫn đôn đốc việc đón tiếp quân Đồng minh thật chu đáo.

Theo ông Đàm Quang Trung, sau khi được đón tiếp trọng thị, Thomas được dẫn lên lán Nà Nưa chào Bác Hồ. Ngay sau đó, Người đã chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp lựa chọn một số chiến sĩ ưu tú trong các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân cùng với lực lượng Đồng minh thành lập Bộ đội Việt-Mỹ, quân số khoảng 200 người, gọi là Đại đội Việt-Mỹ. Đại đội Việt-Mỹ do Đàm Quang Trung chỉ huy, Thiếu tá Thomas được coi là “Tham mưu trưởng” phụ trách công tác huấn luyện. Mặc dù ông Đàm Quang Trung kém Thomas 3-4 tuổi nhưng hai người rất tôn trọng và hiểu ý nhau. Thường thì Thiếu tá Thomas xây dựng kế hoạch rồi trao đổi thông qua Đàm Quang Trung phê duyệt, sau đó mới cho đơn vị triển khai. Trong gần một tháng ở căn cứ Tân Trào, các sĩ quan trong nhóm “Con nai” bao gồm nhiều quốc tịch khác nhau đã huấn luyện cho các chiến sĩ ta làm quen, cách sử dụng các loại vũ khí mới và điện đài; đặc biệt là thuần thục một số động tác chiến đấu.

Thực hiện chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh và mệnh lệnh của Chủ tịch Ủy ban lâm thời Khu giải phóng, ngày

16-8-1945, từ căn cứ địa Việt Bắc, Việt Nam Giải phóng quân được lệnh tiến về Thái Nguyên đánh quân Nhật và tay sai. Đại đội Việt-Mỹ dưới sự chỉ huy của ông Đàm Quang Trung được giao tham gia và làm nòng cốt trong trận đánh quan trọng này. Từ Tuyên Quang ngang qua đồn Đại Từ, khá nhiều anh em đề nghị cho đánh nhưng cả hai ông Võ Nguyên Giáp và Đàm Quang Trung nhận thấy lúc này thời gian rất khẩn trương, nên đã quyết định cho đơn vị hành quân gấp về Thái Nguyên mà bỏ qua đồn lẻ này.

Ông Hoàng Thế Dũng, một trong những người tham gia trận đánh kể: “Ngày 18-8-1945, Bộ đội Việt-Mỹ về đến Thịnh Đán thì dừng lại triển khai đội hình tiến công. Tại thị xã Thái Nguyên lúc bấy giờ, quân Nhật đóng làm hai cụm: Một cụm toàn binh lính Nhật (khoảng 120 quân) do một viên quan tư chỉ huy đóng trong các công sự kiên cố sát khu vực cầu Gia Bẩy. Cụm còn lại là của bảo an đóng gần dinh Tỉnh trưởng với quân số hơn 400 tên. Trong khi đó, lực lượng của ta tham gia trận đánh này ngoài Đại đội Việt-Mỹ còn có Đại đội Vi Dân và Đại đội Bát (của Đàm Quốc Chủng) với tổng số khoảng 450 người được tổ chức thành một Chi đội do ông Lâm Cẩm Như chỉ huy chung.

leftcenterrightdel

Nhóm sĩ quan, quân nhân Mỹ cùng một số thành viên của Bộ đội Việt-Mỹ chụp ảnh cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước khi rời Hà Nội về Mỹ. Ảnh tư liệu

Do tính chất quan trọng của trận đánh này nên hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh đích thân trực tiếp chỉ huy. Xét thấy so sánh tương quan lực lượng và kinh nghiệm trận mạc thì quân Nhật nhỉnh hơn, nhưng tinh thần chúng lại đang hoang mang, do vậy ông Võ Nguyên Giáp vẫn quyết định hành động.

Một kế hoạch tác chiến gấp rút được Ban chỉ huy Đại đội Việt-Mỹ soạn thảo rồi đệ trình lên ông Võ Nguyên Giáp và Ban chỉ huy trận đánh. Theo kế hoạch, 12 giờ đêm 19-8, các lực lượng vào chiếm lĩnh trận địa tiến công. 4 giờ sáng 20-8, lệnh tiến công được phát ra. Đại đội Việt-Mỹ được giao nhiệm vụ bao vây và tiến công các đồn trại binh lính Nhật trong thành.

Trong khi các mục tiêu như Trại bảo an và dinh Tỉnh trưởng được các đơn vị bạn giải quyết khá chóng vánh thì việc giải quyết các đồn trại lính Nhật lại rất gian nan, giằng co, kéo dài do bọn chỉ huy quân Nhật rất ngoan cố. Sau khi đã tiêu diệt các đồn trại lẻ, các ổ đề kháng xung quanh, với chủ trương bao vây, dụ hàng là chính, Bộ đội Việt-Mỹ vẫn kiên trì thuyết phục quân Nhật ra hàng. Nhiều lần thông qua Tỉnh trưởng, ta gửi tối hậu thư cho bọn chỉ huy yêu cầu lệnh cho quân lính hạ vũ khí. Thậm chí Thomas còn phải dịch sang cả tiếng Anh các tối hậu thư đó để chuyển vào nhưng chỉ huy quân Nhật vẫn không chịu hạ vũ khí đầu hàng. Do chưa có thông tin thời điểm đó Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội đã thành công nên chúng vẫn cố dây dưa kéo dài thời gian với hy vọng có viện binh từ Hà Nội lên ứng cứu. Mọi sự kiên nhẫn đều có giới hạn, ta hạn cho quân Nhật đến 14 giờ ngày 20-8 nếu không chịu đầu hàng sẽ bị Giải phóng quân tiến công tiêu diệt.

Sau khi dinh Tỉnh trưởng và Trại bảo an bị tiêu diệt, hơn 60 tay súng tình nguyện xin gia nhập hàng ngũ Giải phóng quân và được biên chế về Đại đội Việt-Mỹ. Đại đội Việt-Mỹ được đổi tên thành Chi đội 4 và vẫn do ông Đàm Quang Trung làm Chi đội trưởng và Thomas làm “Tham mưu trưởng”.

Hạn chót 14 giờ đã tới, quân Nhật vẫn ngoan cố cố thủ trong trại. 15 giờ, Chi đội 4 được lệnh nổ súng tiến công trại. Quân Nhật từ trong trại dựa vào công sự kiên cố điên cuồng phản kích. Trận đánh diễn ra vô cùng quyết liệt. Tiếng súng, tiếng lựu đạn, bộc phá nổ vang, khuấy động cả thị xã Thái Nguyên. Vòng vây dần khép chặt, viện binh không thấy đâu, trại thì bị vây hãm nên thiếu lương thực, nước uống... Sau 3 ngày bị vây hãm, quân Nhật trong trại mới chịu chấp nhận những yêu cầu của ta. Cũng đúng vào lúc đó, các ông Võ Nguyên Giáp và Đàm Quang Trung mới nhận được tin ngày 19-8, nhân dân Hà Nội đã tổng khởi nghĩa thành công.

Giải quyết xong mục tiêu quan trọng nhất ở Thái Nguyên là trại Nhật, trong khi các đơn vị được lệnh tiến về Hà Nội thì Chi đội 4 vẫn tiếp tục ở lại giải quyết nốt những mục tiêu nhỏ lẻ khác nằm rải rác trên địa bàn Thái Nguyên chưa chịu đầu hàng. Phải đến ngày 25-8, khi phái viên của Bộ tư lệnh quân Nhật và phái viên của ta từ Hà Nội lên Thái Nguyên để giải quyết các vấn đề liên quan thì quân Nhật ở đây mới chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.

Ngày 9-9-1945, Bộ đội Việt-Mỹ giải thể. Khoảng một tuần sau đó, Thiếu tá Thomas cùng các sĩ quan trong nhóm “Con nai” rời Hà Nội. Chỉ tồn tại trong khoảng 50 ngày nhưng Bộ đội Việt-Mỹ là minh chứng sống động cho sự hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ vì một nền hòa bình cho thế giới.    

TRẦN VĨNH THÀNH