Năm 1962, tôi là thiếu úy, cán bộ kỹ thuật thuộc Trung đoàn Xe tăng 202 (nay là Lữ đoàn Tăng thiết giáp 202, Binh chủng Tăng thiết giáp). Do có nhiều năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua, tôi vinh dự được đi dự Đại hội liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ 3, tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4 đến 6-5-1962. Sáng 4-5-1962, đại hội khai mạc. Bác Hồ đến dự và nói chuyện với các đại biểu. Tôi ngồi cách nơi Bác nói chuyện không xa. Khi các đại biểu ở hàng ghế thứ năm ra đến cửa hội trường thì tôi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thủ tướng nhận ra tôi là con của gia đình cơ sở bí mật nuôi giấu cán bộ cách mạng năm xưa. Gia đình tôi là một trong những cơ sở cách mạng ở xã Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn (nay là phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn), tỉnh Bình Định, vinh dự nhiều lần được đón đồng chí Phạm Văn Đồng về làm việc, nghỉ tại nhà.
Thủ tướng đang hỏi thăm tình hình gia đình, đơn vị tôi thì Bác Hồ đi tới. Nhìn thấy tôi, Bác hỏi: “Chú ở binh chủng xe tăng?”.
Quá bất ngờ, tôi “dạ” rất to, rồi thưa rành mạch: “Báo cáo Bác, cháu ở Trung đoàn Xe tăng 202 ạ!”.
“Tốt lắm”-Bác tươi cười, rồi Người đặt bàn tay ấm nóng lên vai tôi, giọng ấm áp: “Xe tăng là lực lượng xung kích. Chú là cán bộ, là hạt giống đỏ”.
Tiếp lời Người, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thưa với Bác: “Đồng chí Hùng là người Bình Định”.
Bác cười, vỗ nhẹ vào vai tôi: “Là người miền Nam, chú phải học tập và rèn luyện cho thật tốt, huấn luyện cho thật nhiều chiến sĩ, mai này về chiến đấu, giải phóng quê hương”.
Tôi đứng nghiêm, chào báo cáo: “Thưa Bác, cháu xin nhớ lời dạy của Bác!”.
Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhìn tôi cười. Bác nói: “Nhớ là tốt nhưng phải làm cho được!”.
Bác nắm tay tôi như người cha nắm tay con tiến ra sân. Người còn kéo tôi đứng sát bên để chụp ảnh. Thấy Bác Tôn đã đứng chờ hàng trước, tôi lùi ra phía sau.
Ngày 6-5, đại hội bế mạc. Tôi trở về đơn vị nhưng những lời căn dặn của Bác vẫn vang lên: “Chú là cán bộ, là hạt giống đỏ”; “Nhớ là tốt nhưng phải làm cho được!”...
Khắc ghi lời dạy của Người, ngày 19-7-1965, tôi cùng đồng đội hành quân vượt Trường Sơn vào miền Nam chiến đấu. Vì điều kiện ngày ấy ta chưa thể đưa xe tăng vào chiến trường Đông Nam Bộ, Đoàn Cơ giới Miền (J16) chúng tôi đã dùng vũ khí bộ binh đánh theo lối đặc công, lấy xe địch đánh địch. Đêm 23-3-1966, lực lượng C40 của Đoàn J16 phối hợp với lực lượng nhân mối của ta tiến công Thiết đoàn kỵ binh số 1 ngụy đóng ở Gò Đậu (TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ngày nay). Anh Phùng Văn Mười (là nhân mối của ta, cài trong lòng địch) lái chiếc xe tăng M41 số hiệu 247 thu được về tập kết tại Bông Trang-Nhà Đỏ (nay là ấp 1, thị trấn Tân Bình, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Từ đây, tôi được cấp trên giao lái chiếc xe tăng này vượt 30km đường rừng trong đêm tối, khôn khéo tránh sự truy đuổi của máy bay địch, đưa về cất giấu tại một nơi ở căn cứ Long Nguyên thuộc địa bàn huyện Bến Cát (nay là xã Long Nguyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương) an toàn.
Khi đã có chiếc xe tăng của địch, tôi được thủ trưởng Đoàn J16 giao nhiệm vụ quản lý về kỹ thuật, biên soạn giáo án huấn luyện cho đơn vị mình và đơn vị bạn về cấu tạo, sử dụng xe tăng M41 trong chiến đấu. Sau đó, tôi được phân công làm Đội trưởng Đội 33 thu gom xe địch.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, ăn đói, nhịn khát, lại bị sốt rét nhiều lần quật ngã, nhưng tôi không nản lòng. Những lúc khó khăn, gian khổ, sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, tôi lại nhớ đến lời dạy của Bác. Tôi cùng anh em thu được 35 xe tăng địch nằm rải rác trên chiến trường miền Đông, đưa về sửa chữa thành xe tốt để tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ tiến công ở hướng Tây Ninh và giải phóng Lộc Ninh năm 1972...
NGUYỄN ĐÌNH PHƯỢNG (Ghi theo lời kể của cựu chiến binh Vũ Đức Hùng, nguyên cán bộ kỹ thuật Trung đoàn Xe tăng 202)