Năm 1970, Nguyễn Bá Thâm tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau đó, ông được tuyển chọn vào lớp viết văn phục vụ chiến trường. Lớp học do Ban Thống nhất Trung ương phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Quảng Bá (nay thuộc quận Tây Hồ, TP Hà Nội), tổng số 73 học viên (70 người Việt Nam, 3 người Lào). Thành phần học viên cũng khá đa dạng như: Sinh viên năm thứ ba, thứ tư của Khoa Ngữ văn và Khoa Lịch sử (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội), người viết văn trong Quân đội, giáo viên đã từng làm báo, viết văn.

“Sau này, lớp có nhiều đồng chí đảm nhiệm những chức vụ quan trọng như anh Phạm Quang Nghị làm Bí thư Thành ủy Hà Nội; anh Nguyễn Đức Hạt làm Phó trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương... 8 người trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, một số trở thành tổng biên tập các báo Trung ương và địa phương”, nhà văn Nguyễn Bá Thâm cho biết.

leftcenterrightdel

Nhà văn Nguyễn Bá Thâm. Ảnh: AN KHÁNH 

Lớp học kéo dài từ cuối tháng 8-1970 đến giữa tháng 2-1971. Bế giảng lớp viết văn, 69 học viên (3 người Lào và 1 người Việt Nam đã được bố trí công tác khác) được chuyển lên huấn luyện quân sự tại Trường 105B (Lương Sơn, Hòa Bình). Trước lúc lên Trường 105B, Ban Thống nhất Trung ương phân bổ lực lượng đi các chiến trường: Nam Bộ-Trung ương Cục: 37 người; Khu 6: 5 người; Khu 5: 24 người và Khu Trị Thiên: 3 người. Theo đó, Nguyễn Bá Thâm được phân công vào Khu 5 nhận công tác. Sau 2 tháng huấn luyện chiến đấu, hành quân rèn luyện, ngày 15-4-1971, đoàn vào Khu 5 được các xe thùng bịt kín chở về ga Hàng Cỏ (nay là ga Hà Nội).

Từ đây, đoàn công tác được tàu hỏa chở vào ga Vinh (Nghệ An). Xuống Vinh, đoàn hành quân bộ vào đến xã Đức Lạc (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Từ Đức Lạc, đoàn được ô tô chở đến trạm giao liên Quảng Thắng (Quảng Trạch, Quảng Bình). “Những gian khổ, ác liệt của người lính cầm bút có lẽ được bắt đầu từ đây”, nhà văn Nguyễn Bá Thâm trầm ngâm nhớ lại. Lúc này, vũ khí toàn đoàn chỉ có một khẩu súng AK-47, một khẩu súng trường CKC. Đồng chí nào hưởng chế độ sơ cấp được cấp một khẩu súng ngắn K54. Về dụng cụ tác nghiệp, mỗi người một cuốn sổ tay, một cây bút Trường Sơn và một lọ mực Hồng Hà hoặc Cửu Long.

Đoàn vào Khu 5 chỉ có đồng chí Đoàn Tử Diễn (sau này là Tổng biên tập Nhà xuất bản Thông tấn, Phó tổng biên tập Báo ảnh Việt Nam) có máy ảnh. Nhà văn Nguyễn Bá Thâm kể: “Ngày 24-5-1971, đoàn đến huyện H40 (nay là huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum). Bấy giờ, Sư đoàn 2 ngụy đang càn lên căn cứ địa Khu 5 đóng tại Trà My, Quảng Nam nên Khu ủy phải chạy càn lên trên đó. Chúng tôi được cán bộ Ban Tuyên huấn Khu ủy 5 lên đón tại H40”.

Những ngày đầu, đoàn cán bộ viết văn, làm báo tiếp tục được học tập chính trị, bồi dưỡng kinh nghiệm tác nghiệp trên chiến trường. Sau ngày 2-9-1971, Ban Văn học Quân khu 5 sang xin 3 đồng chí: Nguyễn Bảo, Nguyễn Hồng, Vũ Thị Hồng về Quân khu công tác. Ngoài 3 người trên, trước đó, đồng chí Nguyễn Trí Huân trước khi nhập học là bộ đội nên học xong đã được điều động về Quân khu 5. Số cán bộ còn lại, Khu ủy bố trí một số về Báo Cờ Giải phóng Trung Trung Bộ, Tiểu ban Văn học và Tiểu ban Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ, trong đó có Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ. “Tháng 4-1972, tôi được điều về văn phòng Ban Tuyên huấn rồi sau đó chuyển sang Tiểu ban Tuyên truyền.

Tháng 8-1972, tôi đi xuống vùng đồng bằng Nam Quảng Ngãi, Bắc Bình Định với tư cách cán bộ văn nghệ”, nhà văn Nguyễn Bá Thâm cho biết. Khi ông đến xã Phổ Khánh (Đức Phổ, Quảng Ngãi), đồng chí Hải, Bí thư Đảng ủy xã Phổ Khánh, sau khi xem xong giấy giới thiệu, mừng rỡ nói: “Anh là cán bộ văn nghệ! Anh về đây viết cho tôi mấy bài ca, bài chòi”. Sau đó, Xã ủy họp, phân công từng người lần lượt kể chuyện truyền thống của xã Phổ Khánh để nhà văn viết bài chòi. Trong trường, học viên có được giới thiệu sơ qua về bài chòi, nhưng cụ thể chưa biết viết thế nào. Được các đồng chí Xã ủy động viên: “Dễ ợt! Anh cứ viết thơ lục bát cho tôi”, Nguyễn Bá Thâm đã viết một bài thơ dài 274 câu, trong đó có câu: “Ai về thăm đất Canh Nam/ Ghé thăm Phổ Khánh bên đầm An Khê...”.

leftcenterrightdel

Đoàn cán bộ, văn nghệ sĩ, báo chí Khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh do nhân vật cung cấp 

Suốt 8 tháng lăn lộn trên chiến trường ở huyện Đức Phổ, Nguyễn Bá Thâm đã tham dự nhiều trận đánh lớn nhỏ. Ông nhớ bài báo đầu tiên được viết khi ông mới về xã Phổ Phong (Đức Phổ), được xã đội trưởng đưa ra suối nước lạnh để xem du kích đánh chặn địch. Trong khói súng chưa tan, ông đã tốc ký xong bài báo “Một ngày đánh địch lấn chiếm” (Báo Cờ Giải phóng Quảng Ngãi, số tháng 10-1972).

Để có được một tác phẩm báo chí, văn học mang âm hưởng sục sôi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nhà văn Nguyễn Bá Thâm đã đi chiến đấu cùng Đại đội Lê Thị Hồng Gấm (Tỉnh đội Quảng Ngãi), trong vai người đi bắt ghẹ, đánh cá, bám theo du kích xã Phổ Thạnh (Đức Phổ) để quan sát địch... Tuy nhiên, ấn tượng sâu đậm nhất của ông là lần đi cùng Tiểu đoàn 3 (Mặt trận 44-Quảng Đà) đánh diệt cứ điểm Trùm Giao (Nông Sơn, Quảng Nam). Khi giao nhiệm vụ cho đơn vị đánh cứ điểm Trùm Giao, Tư lệnh Mặt trận 44-Quảng Đà Phan Hoan đã chỉ đạo không cho các đồng chí cán bộ văn nghệ, báo chí bám theo bộ đội vì sợ nguy hiểm cho các đồng chí này. Sẩm tối 23-7-1974, Đại tá Lê Công Thạnh, Chính ủy Mặt trận 44-Quảng Đà, gặp gỡ động viên: “Các đồng chí trở về nhà chỉ huy tiểu đoàn, dứt khoát không được bám theo bộ đội. Chúng tôi đánh xong trận, các đồng chí tha hồ mà khai thác tư liệu”.

Tuy nhiên, sau khi đồng chí Chính ủy Mặt trận vừa đi khỏi, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Quý đã ra hiệu cho đội các nhà văn, nhà báo bám theo đội hình. Nguyễn Bá Thâm, phóng viên Tạp chí Văn nghệ chạy dọc theo hàng quân đang hành quân về vị trí tập kết, cảm nhận được khí thế hừng hực tỏa ra từ những người lính trẻ sắp xung trận. Kết quả trận đánh ngày 24-7-1974, Tiểu đoàn 3 đã diệt gọn sở chỉ huy Tiểu đoàn 145B và một đại đội bảo an của địch. Các phóng viên chiến trường đi cùng đơn vị cũng có những thu hoạch lớn. Trên Tạp chí Văn nghệ, số tháng 10-1974, nhà thơ Thanh Quế có bài bút ký “Buổi trưa ở Điện Bàn”, nhà văn Nguyễn Bá Thâm có tác phẩm “Gió chuyển mùa”. Trên Báo Cờ Giải phóng số cuối tháng 7-1974, nhà báo Dương Đức Quảng có bài và ảnh: “Lửa đạn của súng 12 ly 7 giội vào đồn Trùm Giao”.

Nhắc lại kỷ niệm này, nhà văn Nguyễn Bá Thâm gọi vui là “chuyến đi liều lĩnh”. Đồng thời, ông cũng khẳng định, phóng viên chiến trường muốn có tác phẩm hay thì không thể chỉ là người ghi chép, mà nhất định phải dấn thân như một người chiến sĩ thực thụ. Có như thế, từng con chữ mới thấm đẫm hơi thở của đất nước trong những năm tháng không thể nào quên.

LONG AN