Ngày mới thành lập, tòa soạn Báo Quân giải phóng đứng chân tại căn cứ cách mạng xã Trà Dơn, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Lực lượng phóng viên được Tổng cục Chính trị điều tăng cường từ Báo Quân đội nhân dân, Trường Tuyên giáo Trung ương và được Quân khu 5 rút về từ các đơn vị trực thuộc, quân số lúc cao nhất là 28 người. Lúc không có giao liên dẫn đường, những nhà báo-chiến sĩ tự tìm đường đến các đơn vị để liên hệ công tác. Các tỉnh ở xa như Khánh Hòa, Đắk Lắk phải đi gần một tháng mới đến nơi, nếu gặp mưa lũ hay địch càn thì còn lâu hơn. Đi xa như vậy nhưng mỗi người chỉ nhận tiêu chuẩn ăn đường không quá 10 lon gạo và một ít sắn khô, bắp, muối, nếu thiếu phải tự tìm nguồn tiếp tế trên đường.
Làm báo thời chiến tranh, những phóng viên chiến trường phải đối mặt với muôn vàn thử thách, phải đứng trước lằn ranh sinh tử để hoàn thành sứ mệnh của người chép sử trong lửa đạn. Có những thông tin, ngồi viết ngay dưới hầm công sự khi quân địch vẫn đang nổ súng bên ngoài, họ ghi lại những hình ảnh chân thực mà quên đi bom đạn, chất độc hóa học, các cuộc bố ráp vây càn của địch... Tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của bộ đội và nhân dân làm các tác phẩm báo chí luôn hừng hực khí thế tiến công, truyền cảm hứng mạnh mẽ, góp phần động viên, cổ vũ quân và dân Trung Trung Bộ hăng hái lao động sản xuất, chiến đấu và chiến thắng.
|
|
Trưởng ban biên tập Lê Hữu Lộc (ngoài cùng, bên phải) cùng các phóng viên Báo Quân giải phóng tại Nước Oa (Quảng Nam) năm 1974. Ảnh: Báo Quân khu 5
|
Từ số báo đầu tiên đến tháng 8-1975, Báo Quân giải phóng đã ra được 286 số, phát hành đến cấp đại đội, huyện đội và các cơ quan, đơn vị trong toàn Quân khu 5. Trong các buổi gặp mặt do Cục Chính trị Quân khu 5 tổ chức nhân kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6), các cán bộ, phóng viên Báo Quân giải phóng thường cùng nhau ôn lại những năm tháng hào hùng làm báo dưới khói lửa bom, đạn.
Đồng chí Lê Hữu Lộc, nguyên Trưởng ban biên tập Báo Quân giải phóng, kể: “Nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, cổ vũ quân và dân ta nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tòa soạn phối hợp chặt chẽ với nhà in để in báo kịp thời phát hành đến các đơn vị. Mỗi tháng 2 kỳ, khổ báo 25x38cm, mỗi số có 8 trang, in đen trắng; các số đặc biệt có 12-16 trang, in 3 màu. Hồi ấy báo làm theo phương pháp in chì, ảnh kẽm, rất tốn thời gian, công sức. Đi đến đâu viết đến đó, phóng viên viết xong, nhờ bộ phận cơ yếu của đơn vị chuyển về tòa soạn hoặc gửi nhờ cán bộ về Quân khu họp. Ảnh thì gửi cuộn phim về để chuyển cho nhà in tráng ra”.
Không những theo sát các đơn vị, địa bàn, có mặt ở những trận đánh, nơi chiến sự nóng bỏng nhất để lấy tin, gặp nhân chứng, chứng kiến sự kiện... phóng viên cũng cầm súng trực tiếp chiến đấu, trực tiếp tăng gia sản xuất, làm rẫy, trỉa lúa, trồng sắn, trồng ngô, trường kỳ đương đầu với “đói, đau, đạn, địch”. Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh trên chiến trường, đó là: Hồ Hoàng Đỡ (hy sinh ở Phù Mỹ, Bình Định), Phan Đình Côn (hy sinh trong trận tiến công Chi khu quận lỵ Minh Long, Quảng Ngãi), Lê Văn Luyện (hy sinh trên Đường 16 Quảng Nam), Nguyễn Thiện Tơ (hy sinh ở Thượng Đức, Quảng Nam), Phạm Quang Dụ (hy sinh ở An Lão, Bình Định).
Trong những cuộc gặp mặt các cựu phóng viên Báo Quân giải phóng, các cựu chiến binh đều nhắc đến phóng viên Lê Văn Luyện. Năm 1972, anh rất phấn khởi khi được phân công đi Sư đoàn 2 đang tác chiến ở phía Tây Quảng Nam. Trước khi đi, anh tâm sự: “Mấy hôm nay cơ quan mình chưa có bữa nào được ăn no. Xong đợt công tác, tôi sẽ cố gắng kiếm một vài món gì đó cho tòa soạn liên hoan”. Không ngờ đó là chuyến đi cuối cùng, anh đã hy sinh trên Đường 16 do bị trúng bom rải thảm của máy bay B-52 Mỹ, đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt.
|
|
Trang 1 Báo Quân giải phóng số đặc biệt Tết Giáp Dần 1974. Ảnh tư liệu |
Là một trong số 10 phóng viên được học ở trường báo chí Trung ương bổ sung cho tòa soạn, phóng viên Phạm Quang Dụ được giao ở nhà làm công tác trị sự là chính. Để chuẩn bị cho những trận đánh lớn, cuối năm 1974, anh được cử về công tác tại Sư đoàn 3 ở Bình Định. Anh mới đi được hơn một tuần thì Đài BBC nói lính biệt kích vừa tóm được một phóng viên ở An Lão. Cả tòa soạn lo lắng không yên. Tuy nhiên, thời gian sau vẫn không nghe đài địch nói gì thêm.
Sau này thông tin của ta báo về, anh Dụ đến An Toàn (An Lão) thì được một giao liên dẫn đi, giữa đường gặp địch phục kích. Cả hai đã chiến đấu và anh dũng hy sinh. Bọn địch dựa vào máy ảnh, súng ngắn và giấy giới thiệu nên chúng biết đó là phóng viên. Sau ngày giải phóng, nhân dân đã quy tập hài cốt về nghĩa trang và không ghi rõ tên tuổi. Vì ghi là mất tích nên 15 năm sau, nhờ sự can thiệp tích cực của nhiều bộ phận, anh Dụ mới được công nhận là liệt sĩ. Cục Chính trị Quân khu 5 đã 4 lần tổ chức đi tìm hài cốt của anh nhưng vẫn chưa thấy.
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, nguyên Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu 5, nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị), cho biết: “Trong những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, hy sinh thời chống Mỹ, Báo Quân giải phóng thường xuyên phân tán lực lượng, bám cơ sở, bám chiến trường, kịp thời có mặt ở những thời điểm quan trọng nhất. Họ đã chiến đấu, công tác như những người lính thực thụ. Những tác phẩm báo chí đã phản ánh sinh động cuộc sống, chiến đấu của LLVT và nhân dân Trung Trung Bộ, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần, củng cố niềm lạc quan, tin tưởng cho cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới giành thắng lợi vẻ vang”.
Ra đời giữa núi rừng chiến khu với muôn vàn khó khăn, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ tư lệnh và Cục Chính trị Quân khu 5, đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên Báo Quân giải phóng vừa cầm súng, vừa cầm bút, thực sự là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, luôn giữ vững “tâm sáng, lòng trong, bút sắc”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xây đắp nên truyền thống vẻ vang “Bản lĩnh, chính xác, kịp thời, hiệu quả”, tờ báo đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
NGỌC DIỆP