Mở đầu câu chuyện về cơ duyên đến với nghề báo, nhà báo Nguyễn Văn Chung cho hay: “Ngày 24-2-1975, tôi nhập ngũ vào Trung đoàn 42 thuộc Quân khu Tả Ngạn. Tháng 9-1979, tôi được cấp trên điều động, bổ nhiệm là Trợ lý Tuyên huấn Trung đoàn 42 lúc này thuộc biên chế Sư đoàn 327, Quân đoàn 14. Bằng sự năng nổ, luôn hết mình trong công việc, tôi được cấp trên tín nhiệm, phân công làm “phát thanh viên kiêm phóng viên” cho “chương trình phát thanh” của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 42 và từ đây tôi lấy bút danh Văn Chung. Năm 1979, Quân đoàn 14 xuất bản Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng, tôi và anh Dương Văn Tung được điều từ Trung đoàn lên Quân đoàn cùng với các anh Nguyễn Duy Quyền và Nguyễn Minh Quang từ Đà Nẵng ra, để làm cho tờ tin của Quân đoàn”.

Để bảo đảm bài, ảnh cho các số “Binh đoàn Chi Lăng” xuất bản đúng kế hoạch, các phóng viên phải trực tiếp đến cơ sở, thường theo xe tuyến (mỗi tuần chỉ có một lần), xe vận tải hoặc là đi nhờ xe của các cục, phòng từ Quân đoàn bộ để xuống đơn vị. Các phóng viên chỉ được ngồi nhờ xe tới sư bộ rồi từ sư bộ đi bộ, lội suối, trèo đèo, băng rừng tới từng đại đội trên các điểm tựa biên giới. Phương tiện, điều kiện tác nghiệp, trang bị cho nhà báo khi ấy rất khó khăn, thiếu thốn, xuống cơ sở lấy thông tin xong là lại vội trở về để viết tin, bài, in tráng ảnh.

Bài vở viết tay, được duyệt xong thì tự đánh máy. Tờ tin phát hành 1 tháng 2 kỳ nên quay đi quay lại là ra số mới. Thời kỳ đầu tờ tin chỉ được in roneo, cũng do cán bộ, phóng viên tự in kiểu quay tay. Mãi sau được in ở xưởng nhưng phải đưa bài tới xưởng in, sửa bản in rồi khi in xong lại tới xưởng nhận ấn phẩm. Tờ tin in xong thì anh em lại căng mình ra đếm, chia, đóng gói, chằng buộc gọn gàng, viết địa chỉ để qua đường quân bưu gửi tới các đại đội.

leftcenterrightdel
Phóng viên Văn Chung (cầm máy ảnh bên phải) tác nghiệp trên điểm tựa. Ảnh do nhân vật cung cấp 

Nhà báo Văn Chung tâm sự: “Làm báo trên điểm tựa đã cho tôi nhiều ý hay. Anh em rất say mê, vừa làm vừa học, học ở các anh đi trước, học ở thực tế. Anh Quyền, anh Quang đều được đào tạo báo chí chính quy, đã nhiều năm làm báo nên các anh ấy đã “truyền dạy” cho tôi và anh Dương Văn Tung những bài học quý. Chính các anh ấy là những “người thầy báo chí” của chúng tôi”.

Do ít người nên ban biên tập tờ tin rất quan tâm phát triển đội ngũ cộng tác viên. Sau khi Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng xuất bản số đầu tiên chừng 2 tháng, khoảng đầu năm 1980, Quân đoàn 14 tổ chức Lớp bồi dưỡng cộng tác viên cho Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng. Lớp có 40 học viên từ những cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị thuộc Quân đoàn tham gia. Giảng viên là các nhà báo, phóng viên của Báo Quân đội nhân dân, Hội Nhà báo Việt Nam, lên tuyến đầu truyền đạt kinh nghiệm viết báo, chụp ảnh báo chí.

Nhiều học viên tham gia lớp bồi dưỡng sau này trở thành các nhà báo, nhà thơ, nhà văn chuyên nghiệp, như: Nhà báo, nhà thơ Đặng Vương Hưng, khi ấy là thuyết minh phim ở Đội chiếu bóng Sư đoàn 347; nhà lý luận phê bình Nguyễn Hòa, khi đó cũng là thuyết minh phim ở Đội chiếu bóng Sư đoàn 338. Đó là các anh: Vũ Cẩn Thận, cán bộ tuyên huấn Lữ đoàn phòng không 272; Nguyễn Đình Thân, Trợ lý Phòng Dân vận, Cục Chính trị Quân đoàn 14... Kết thúc lớp bồi dưỡng, các học viên trở về đơn vị tích cực viết cho Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng. Các anh Đặng Vương Hưng, Nguyễn Hòa có những tin, bài và cả thơ, rồi nhuận bút “đầu đời” đều bắt đầu ở Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng, đó là hành trang quan trọng để trưởng thành trong nghề báo, nghề văn sau này.

Nhà báo Văn Chung nhớ lại: “Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng luôn bám sát hoạt động chiến đấu và đời sống mọi mặt của bộ đội. Nhờ vậy mà tờ tin luôn được cấp trên đánh giá là: Phản ánh kịp thời những gương điển hình, gương dũng cảm. Trên tờ tin dạo đó luôn xuất hiện các gương điển hình trong huấn luyện, chiến đấu và đoàn kết quân dân. Chúng tôi còn “chuyển tiếp” gửi bài viết về các gương điển hình đó lên các báo: Quân đội nhân dân; Nhân Dân, Tiền phong, Quân khu 1... Do đó, gương điển hình được lan tỏa ra cả nước và các đơn vị trong toàn quân.

Một trong những bài báo có nhiều kỷ niệm nhất của tôi là bài “Người mang thẻ đoàn số...” viết về tấm gương dũng cảm chiến đấu và hy sinh anh dũng của chiến sĩ Nguyễn Duy Đảo, thuộc Đại đội 10, Sư đoàn 347. Chiến sĩ Nguyễn Duy Đảo vốn là “anh nuôi” nên không có tên trong danh sách đi chiến đấu, nhưng anh đã chủ động xin chỉ huy đơn vị được đi chiến đấu... Và rồi anh ấy hy sinh.

Tôi đã có mặt ở đơn vị anh để tìm hiểu kỹ hơn về cuộc chiến đấu. Bài báo đăng trên Tờ tin Binh đoàn Chi Lăng, rồi tôi gửi đăng tiếp ở Báo Quân đội nhân dân và Báo Nhân Dân. Ngay sau khi bài báo được đăng, tôi đã nhận được liên tiếp vài chục lá thư của các bạn trẻ từ khắp các vùng miền trong cả nước gửi tới, bày tỏ lòng cảm phục, ngưỡng mộ tấm gương hy sinh của chiến sĩ Nguyễn Duy Đảo và các đồng đội của anh...”. 

Nhà báo Văn Chung ngừng lời, ánh mắt sáng lên. Dường như ký ức từ những năm làm báo trên điểm tựa đang trở về, rạo rực trong anh.

ĐOÀN THIỆN VY