Đại tá, NGƯT Nguyễn Đăng Thanh nhập ngũ năm 1966 tại Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 36, Sư đoàn 308. Sau 3 tháng huấn luyện, chiến sĩ Nguyễn Đăng Thanh cùng đồng đội nhận lệnh vào chiến trường miền Nam tham gia công tác, chiến đấu. Khi vào đến chiến trường, chiến sĩ Nguyễn Đăng Thanh được biên chế về Đại đội 4, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 66, Mặt trận Tây Nguyên (B3).
“Những năm tháng đó, chúng tôi ăn bo bo, sắn, rau rừng, bữa đói bữa no, nhưng trên hết là tinh thần đoàn kết, sự gắn bó chân thành, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ở chiến trường, ngoài trang bị vũ khí, quân tư trang, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, cán bộ, chiến sĩ còn được trang bị một cuộn dây dù đeo ở thắt lưng. Cuộn dây dù này dùng trong các tình huống mắc tăng võng và... trói tù binh.
Tôi nhớ, trận đánh ngày 5-7-1967 tại khu vực Đức Cơ, phía Tây tỉnh Gia Lai. Đối tượng tác chiến của đơn vị tôi là một đại đội quân Mỹ-ngụy. Trận đánh diễn ra ác liệt, từ 8 giờ đến khoảng 11 giờ. Chúng tôi đã bắt sống 4 tù binh. Cuộn dây dù chúng tôi đeo ở thắt lưng đã phát huy tác dụng, chúng tôi dùng trói tù binh, giải về hậu cứ. Lúc bấy giờ, Trung đoàn 66 là một trong những đơn vị bắt sống tù binh Mỹ nhiều nhất trên chiến trường Tây Nguyên”, Đại tá Nguyễn Đăng Thanh kể lại.
    |
 |
Đại tá, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đăng Thanh (ngoài cùng, bên phải) cùng gia đình. Ảnh: HÀ BÌNH |
Cuối năm 1970, sau khi tham gia hàng chục trận đánh trên chiến trường Tây Nguyên, với thành tích xuất sắc, chiến sĩ Nguyễn Đăng Thanh được cử về Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1) học tập. “Khóa 33 của trường ngày ấy có nhiều học viên đã qua chiến đấu nên khi cán bộ, giảng viên của trường giảng bài, nêu ví dụ phân tích, chúng tôi dễ hình dung và hiểu rõ nguyên nhân thắng lợi. Từ những bài học thực tế chiến trường cùng giáo án của thầy trên giảng đường đã giúp chúng tôi nắm kiến thức một cách toàn diện.
Đầu năm 1972, kết thúc khóa học, tôi và một số anh em được nhà trường giữ lại công tác. Từ năm 1973 đến 1977, tôi là cán bộ trung đội tại Tiểu đoàn 6. Khi đó, cán bộ trung đội, đại đội vừa quản lý, vừa trực tiếp huấn luyện các môn kỹ thuật, chiến thuật, điều lệnh đội ngũ... cho bộ đội. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, chúng tôi phải học tập, nghiên cứu, kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, góp phần truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm chiến trường cho học viên. Không chỉ truyền cảm hứng cho học viên học tập, chúng tôi còn khơi gợi, truyền lửa về tình yêu đất nước, để mỗi khóa học, học viên lại vững vàng, chắc tay súng lên đường ra chiến trận”, thầy giáo Nguyễn Đăng Thanh kể tiếp.
Năm 1977, thầy giáo Nguyễn Đăng Thanh được điều động về làm giảng viên Khoa Chiến thuật. Ở cương vị mới, thầy Thanh toàn tâm cho nghiên cứu, giảng dạy môn học Chiến thuật. Bằng kinh nghiệm thực tiễn chiến trường, thầy cùng đồng nghiệp nghiên cứu biên soạn giáo án huấn luyện và giáo trình “Chiến thuật cấp phân đội”. Tài liệu này không chỉ giúp học viên học tập, vận dụng thực tiễn mà còn giúp các giảng viên trẻ sau này nghiên cứu, vận dụng những chiến lệ, bài học từ thực tiễn chiến trường vào quá trình giảng dạy, đồng thời nghiên cứu bổ sung, chỉnh lý, biên soạn để phù hợp với điều kiện thực tiễn chiến tranh hiện đại.
Hơn 35 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong Quân đội, Đại tá, NGƯT Nguyễn Đăng Thanh luôn trăn trở, làm sao để đưa kiến thức, bài học thực tế từ chiến trường vào mỗi trang giáo án. Những trăn trở của thầy được hiện thực hóa bằng những giờ giảng, bài giảng và những tài liệu, giáo trình được xuất bản phục vụ công tác đào tạo. Quá trình nỗ lực phấn đấu, từ một giảng viên trở thành Phó chủ nhiệm Khoa Chiến thuật; Trưởng phòng Khoa học-Công nghệ và Môi trường, cùng những công trình nghiên cứu, tài liệu, giáo trình xuất bản và trực tiếp giảng dạy, năm 1998, Đại tá Nguyễn Đăng Thanh được phong tặng danh hiệu NGƯT.
Đại tá, NGƯT Nguyễn Đăng Thanh nghỉ hưu năm 2007, song thầy vẫn cùng các thế hệ cán bộ, giảng viên nhà trường tham gia nghiên cứu, kế thừa, phát triển nghệ thuật quân sự phù hợp với điều kiện thực tiễn để vận dụng, đưa vào giảng dạy.
LÊ QUYẾT