Đồng chí Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9-2-1907, tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay là xã Xuân Hồng, tỉnh Ninh Bình). Năm 1925, đồng chí tham gia hoạt động cách mạng; gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1927; được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) năm 1930. Cuối năm 1930, đồng chí bị Pháp bắt, kết án 12 năm tù, đày đi Sơn La. Cuối năm 1936, đồng chí được trả tự do và tiếp tục hoạt động.

Nắm bắt thời cơ thuận lợi, 20 giờ ngày 27-9-1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, lực lượng tự vệ cùng hơn 300 quần chúng đánh chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn, xóa bỏ chính quyền địch. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đang lan rộng thì Nhật thỏa hiệp, cho Pháp chiếm lại đồn Mỏ Nhài và châu lỵ Bắc Sơn, rồi tập trung càn quét, bắt bớ, khủng bố nhân dân hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa.

Giữa lúc đó, đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ được Xứ ủy cử lên Bắc Sơn cùng Đảng bộ địa phương lãnh đạo đấu tranh, duy trì khởi nghĩa, tổ chức đội du kích và xây dựng khu căn cứ Bắc Sơn. Nhằm phát huy khí thế cách mạng, ngày 28-10-1940, Ban chỉ huy du kích tổ chức cuộc tuần hành lớn, thu hút hàng nghìn đồng bào cùng đội du kích đến trường Vũ Lăng dự mít tinh, chuẩn bị thành lập chính quyền cách mạng thì bị quân Pháp tập kích và khủng bố dã man, buộc du kích phải phân tán lực lượng vào trong dân và rút vào rừng để duy trì lực lượng tiếp tục hoạt động.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11-1940) do đồng chí Trường Chinh chủ trì, bàn nhiều vấn đề quan trọng của cách mạng Việt Nam. Trong đó, đồng chí cùng Trung ương Đảng thống nhất quyết định phải phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bằng cách “duy trì lực lượng vũ trang, thành lập những đội du kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn-Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo” (Theo “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, tập 1, quyển 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2018, trang 507).

leftcenterrightdel
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh với các cháu thiếu nhi và đồng bào các dân tộc tỉnh Lạng Sơn, tháng 10-1984. Ảnh: NGỌC ĐÀO - TTXVN 

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời bầu các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và bầu đồng chí Trường Chinh làm Quyền Tổng Bí thư thay đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt (tháng 1-1940). Như vậy, Hội nghị Trung ương 7, do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã chính thức đưa vào chương trình nghị sự quyết định duy trì và phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bằng cách bồi dưỡng lực lượng du kích, tiến tới chính thức thành lập một đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Đảng ở Bắc Sơn.

Khu căn cứ cách mạng Bắc Sơn nằm trên đường hành trình của đoàn đại biểu Trung ương Đảng từ an toàn khu ở miền xuôi lên Pác Bó (Cao Bằng), nơi tổ chức Hội nghị Trung ương 8 và từ Pác Bó trở về khi hội nghị kết thúc. Tháng 2-1941, đồng chí Trường Chinh (tức Sơn), cùng các đồng chí Hoàng Văn Thụ (tức Vân), Hoàng Quốc Việt (tức Chính), từ miền xuôi lên Cao Bằng dự Hội nghị Trung ương 8 đã dừng lại ở khu căn cứ Bắc Sơn. Tại Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ (Lạng Sơn), ngày 14-2-1941, Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh đã cùng các đồng chí Thường vụ Trung ương dự buổi lễ thành lập Đội du kích Bắc Sơn theo nghị quyết Hội nghị Trung ương 7.

Tại Hội nghị Trung ương 8, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau khi hội nghị kết thúc, Tổng Bí thư Trường Chinh cùng các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt trên đường từ Pác Bó về khu an toàn ở miền xuôi đã dừng lại ở khu căn cứ Bắc Sơn (từ ngày 6-7 đến 8-8-1941). Tại cơ quan bí mật ở Lân Táy, nay thuộc xã Vũ Lăng, tỉnh Lạng Sơn, từ ngày 6 đến 21-7, đồng chí Trường Chinh và các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng gặp gỡ Ban chỉ huy đội du kích nắm tình hình và tranh thủ truyền đạt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 cho đội du kích. Sau học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, cán bộ, chiến sĩ Đội du kích Bắc Sơn nắm rõ hơn đường lối, quyết sách mới của Đảng, thấu suốt nhiệm vụ của Đội, cũng như chủ trương phát triển lực lượng, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi.

Cũng trong dịp này, quyết định chuyển Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân được công bố, để phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8. Đây chính là Trung đội Cứu quốc quân 1-một trong những đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Giữa tháng 7-1941, Tổng Bí thư Trường Chinh cùng các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt họp bàn với các đồng chí trong Ban chỉ huy Cứu quốc quân, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng, củng cố khu căn cứ trong thời gian vừa qua và kiểm điểm những mặt hạn chế, thiếu sót cần sửa chữa, khắc phục; đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động thời gian tới.

leftcenterrightdel

Bức tranh đồng chí Trường Chinh truyền đạt Nghị quyết Trung ương 8 của Đảng cho cán bộ, đội viên Đội du kích Bắc Sơn tại bản Lân Táy, trưng bày tại Bảo tàng Khởi nghĩa Bắc Sơn. 

Vừa vinh dự mang tên mới, Cứu quốc quân xây dựng chưa được bao lâu thì phải đối phó với cuộc càn quét, khủng bố lớn của 4.000 quân gồm cả lính Pháp, lính lê dương, lính khố đỏ, lính khố xanh, cùng mật thám, cường hào, lính dõng từ Lạng Sơn xuống, từ Thái Nguyên lên và từ Bắc Giang sang, bao vây chặt khu căn cứ Bắc Sơn. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Cứu quốc quân cử một tổ bảo vệ Tổng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng bí mật rút xuống căn cứ Võ Nhai, rồi về miền xuôi an toàn. Ngay sau đó, Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định rút 2 tiểu đội ra khỏi vòng vây của địch. Một tiểu đội rút về phía Lạng Sơn, tiến lên vùng biên giới Việt-Trung an toàn. Tiểu đội còn lại rút về phía Cao Bằng, bị địch phục kích ở xã Công Bằng, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn (nay là xã Cao Minh, tỉnh Thái Nguyên), khiến đồng chí Phùng Chí Kiên anh dũng hy sinh, đồng chí Lương Văn Tri bị thương, bị địch bắt và hy sinh ở nhà giam tỉnh Cao Bằng. Tiểu đội Cứu quốc quân ở lại Bắc Sơn cũng bị tổn thất nặng, chỉ còn 4 đồng chí thoát khỏi vòng vây của địch rút xuống căn cứ Võ Nhai.

Với cương vị Chủ tịch Quốc hội, sau gần 40 năm, ngày 27-9-1980, đồng chí Trường Chinh trở lại thăm và dự cuộc mít tinh ở sân vận động huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn (nay là xã Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn). Đọc diễn văn tại cuộc mít tinh, đồng chí Trường Chinh đánh giá ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn diễn ra 40 năm trước: “Khởi nghĩa Bắc Sơn đã mở đầu cao trào giải phóng các dân tộc Đông Dương trong những năm 1939-1945, mở đầu thời kỳ nhân dân Việt Nam sử dụng các hình thức của bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng kết hợp với tiến công của các lực lượng vũ trang nhân dân, đánh đổ chính quyền của đế quốc và phong kiến, giành độc lập, tự do. Tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước... Khởi nghĩa Bắc Sơn đã giúp cho Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về phương pháp lãnh đạo và tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Khởi nghĩa Bắc Sơn chứng tỏ rằng, con đường khởi nghĩa đúng đắn ở nước ta là con đường bạo lực cách mạng thể hiện ở sự kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng. Đó là con đường từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa trong cả nước. Một lần nữa nó xác nhận khởi nghĩa là tiến công, tiến công đến cùng để giành thắng lợi hoàn toàn”.

Đồng chí Trường Chinh đã đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn là duy trì, phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, cũng như củng cố và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng Bắc Sơn để làm vốn quân sự cho Đảng sau này. Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng và Chủ tịch Quốc hội, đồng chí đến Bắc Sơn 3 lần, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, phong trào cách mạng và đánh giá đúng tầm vóc của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.

DƯƠNG ĐÌNH