Ngày 10-1-1987, chỉ huy Đoàn lệnh cho tôi-Đại úy Ngô Quý Đức, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 khẩn trương làm công tác chuẩn bị, chỉ huy đơn vị hành quân tiến công tiêu diệt tàn quân Pol Pot đang trú quân ở căn cứ lõm, trên hướng Tây Bắc huyện Tha La. Thấy tôi mới

ra viện, anh Trần Quang Thắng, Phó tiểu đoàn trưởng quân sự, xung phong trực tiếp chỉ huy trận đánh. Tôi ghi nhận tình cảm của anh nhưng kiên quyết: “Anh chuẩn bị rời chiến trường để về nước, ở lại quản lý các quân nhân trông coi doanh trại. Trận này để tôi trực tiếp chỉ huy”.

Đúng 15 giờ ngày 10-1, Tiểu đoàn hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, hành quân theo kế hoạch. Đi cùng Tiểu đoàn có đồng chí Bí thư Huyện ủy Tha La, 4 chiến sĩ công an huyện và tên lính Pol Pot ra hàng dẫn đường. Do thời gian gấp, chúng tôi phải vừa chỉ huy hành quân vừa trực tiếp khai thác tên hàng binh để nắm rõ địa hình, khu vực hoạt động của địch...

Sau 3 ngày cắt rừng, xuyên núi, khoảng 22 giờ ngày thứ ba, Tiểu đoàn đã bí mật tiếp cận được căn cứ số một của địch nhưng chúng đã bỏ đi trước đó 2-3 ngày. Tôi cho đơn vị dừng lại nghỉ ngơi đến 4 giờ 30 phút ngày thứ tư tiếp tục hành quân. 15 giờ hôm ấy, bộ phận đi đầu báo về có căn cứ địch.

Tiểu đoàn đẩy nhanh tốc độ hành quân, đến khoảng 15 giờ 30 phút, toàn đội hình tạm dừng ở địa hình có bình độ cao hơn các địa hình xung quanh, gọi là mỏm A; bên trái phía trước (hướng Đông Nam), cách mỏm A khoảng 200m là mỏm B. Theo nguồn tin từ cấp trên cung cấp và trực tiếp khai thác tên lính Pol Pot đầu hàng, chúng tôi nắm được địch bố trí ở phía Đông căn cứ một tiểu đoàn, bên ngoài có bãi mìn bảo vệ do tên Pôn, Trung đoàn trưởng chỉ huy. Tiểu đoàn xác định đây là mục tiêu chủ yếu. Ở phía trước, bên phải (hướng Tây Nam), cách mỏm A khoảng 250m là mỏm C, địch bố trí một đại đội chốt giữ. Trên hướng Tây Bắc căn cứ, địch bố trí một bãi mìn đề phòng bị ta tiến công theo hướng này lên. Qua quan sát, chúng tôi phát hiện thấy có các tốp địch đi lại nhấp nhô bên bìa rừng và xác định đây là mục tiêu thứ yếu. Khoảng cách chính diện giữa mỏm B và mỏm C khoảng 300m, địa hình trống trải.

leftcenterrightdel
 Đồng chí Ngô Quý Đức (ở giữa) trong lần gặp Phó tư lệnh Quân khu 1 Campuchia (ngoài cùng, bên phải) năm 2019. Ảnh: LONG ĐỨC

Căn cứ vào kết quả trinh sát và tình hình địch-ta, tôi hội ý với chỉ huy các đại đội xác định tổ chức lực lượng tác chiến. Trên hướng thứ yếu, bộ đội đang cơ động thì phát hiện tổ cảnh giới của địch. Tôi nhận được báo cáo liền lệnh cho đơn vị bí mật vòng vượt bỏ mục tiêu cảnh giới, tiếp tục cơ động nhanh đến mục tiêu thứ yếu theo quy định, vì nếu ta nổ súng tiêu diệt lực lượng nhỏ cảnh giới thì địch trong căn cứ sẽ tháo chạy. 16 giờ 30 phút, bộ phận đón lõng phát hiện tốp địch từ ngoài vào căn cứ, lập tức dùng súng AK bắn tiêu diệt tại chỗ 6 tên. Địch trong căn cứ không biết đó là tiếng súng của ta nên tổ chức một bộ phận cơ động ra kiểm tra nắm tình hình. Bộ phận đón lõng bấm mìn định hướng tiêu diệt tại chỗ 8 tên. Lúc này, địch trong căn cứ biết đã bị ta bao vây, hoảng loạn, mất phương hướng, chạy thẳng vào hướng tiến công chủ yếu của Tiểu đoàn. Đại đội 6 ngay lập tức nổ súng tiêu diệt tại chỗ 18 tên. Những tên địch sống sót men theo bìa rừng chạy về hướng Nam. Cùng lúc đó, trên hướng tiến công thứ yếu, Đại đội 8 nổ súng tiêu diệt được 11 tên. Không bỏ lỡ thời cơ diệt địch, tôi ra lệnh cho Đại đội 8 (thiếu) cơ động chi viện cho hướng tiến công chủ yếu, truy kích tiêu diệt 4 tên địch đang tháo chạy về hướng Nam. Đúng 17 giờ 15 phút ngày 13-1-1987, tức ngày truy quét thứ tư, Tiểu đoàn làm chủ trận địa. Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt 52 tên địch, trong đó có tên trung đoàn trưởng, xóa sổ trung đoàn tàn quân Pol Pot.

NGUYỄN SỸ LONG (Theo lời kể của Trung tướng Ngô Quý Đức, nguyên Cục trưởng Cục Cứu hộ-Cứu nạn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam)