Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29-3 năm Kỷ Hợi (tức ngày 12-5-1839) tại xóm Phú Mộng, xã Xuân Hòa, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Kim Long, TP Huế). Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quyền quý hoàng tộc nhà Nguyễn nên Tôn Thất Thuyết có điều kiện để học hành thành đạt. Tuy nhiên ông cũng chỉ được giữ một số chức quan nhỏ. Phải đến năm 1869, Tôn Thất Thuyết mới được triều đình phong làm Án sát tỉnh Hải Dương, rồi không lâu sau đó được bổ nhiệm làm Biện lý Bộ Hộ.

Lúc bấy giờ, tình hình biên ải phía Bắc khá phức tạp do nhiều toán phỉ từ bên kia biên giới kéo sang hoành hành, phá phách. Trong bối cảnh đó, năm 1870, Tôn Thất Thuyết được triều đình sung chức Tán tương Quân vụ và cử ra Bắc cùng với Thống đốc Quân vụ Hoàng Tá Viêm chỉ huy công cuộc tiễu phỉ ở các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh, Thái Nguyên... Ngay sau khi nhậm chức, Tôn Thất Thuyết đã tâu bày với triều đình nhiều kế sách hay. Trong đó, đáng chú ý là kế phá tan âm mưu chặn đường vận lương của phỉ tại quân thứ Lạng Sơn; đập tan một sào huyệt phỉ ở Nà Khôn (Thái Nguyên). Ông cũng là “kiến trúc sư” của nhiều trận đánh phỉ nổi tiếng, như: Trận Thanh Lâm (Hải Dương), Triệu Độ (Quảng Yên)... Những trận thắng này đều in đậm dấu ấn chỉ huy tài ba của Tôn Thất Thuyết. Với những đóng góp to lớn của Tôn Thất Thuyết trên mặt trận tiễu phỉ, một người trước đó vốn khắt khe và không mấy thiện cảm với ông như vua Tự Đức cũng phải thốt lời khen: “Thắng trận như thế, công không thể kể hết được”, và rằng: Tôn Thất Thuyết là “tướng có uy vũ”, “tài trí đáng khen”...

leftcenterrightdel
Binh Bộ thư Tôn Thất Thuyết (1839-1913). Ảnh tư liệu 

Năm 1873, Tôn Thất Thuyết được phong Tham tán Quân vụ kiêm Tham tri Bộ Binh. Cuối năm đó, Tôn Thất Thuyết trực tiếp chỉ huy một cánh quân cùng với đội quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc giành thắng lợi lớn ở trận Cầu Giấy (21-12-1873). Trong trận đánh này, cánh quân của Tôn Thất Thuyết tiêu diệt được tên phó tướng Banny ở đền Voi Phục. Tiếc là do lo ngại khó khăn cho cuộc thương lượng với Pháp nên lúc bấy giờ, triều đình không những không ủng hộ, cổ xúy chiến thắng đó mà còn phái người gấp ra yêu cầu Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết bãi quân và buộc hai ông phải “án binh bất động”. Năm 1877, nhân bị một trận ốm nặng, Tôn Thất Thuyết xin về nghỉ dưỡng tại Thanh Hóa. Trong thời gian nghỉ dưỡng tại đây, ông đã móc nối với một số sĩ phu yêu nước trên địa bàn, tham gia lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa ở địa phương.

Thực dân Pháp càng ngày càng lấn tới trên con đường xâm lăng Việt Nam. Tháng 8-1881, Tôn Thất Thuyết lại được vua Tự Đức mời vào nhậm chức Thượng thư Bộ Binh phụ trách toàn bộ việc quân của triều đình. Tháng 6-1883, ông được sung vào Viện Cơ mật. Sau khi vua Tự Đức băng hà, Tôn Thất Thuyết trở thành một trong ba phụ chính đại thần trụ cột của triều đình. Ông cùng với Nguyễn Văn Tường và Trần Tiễn Thành gánh vác việc nước trong bối cảnh vua Hàm Nghi vừa mới lên ngôi còn đang nhỏ tuổi.

Sau khi triều đình Huế ký với Pháp bản Hòa ước Quý Mùi (25-8-1883), tiếp sau đó là Hòa ước Giáp Thân (6-6-1884), Tôn Thất Thuyết biết rằng một cuộc chiến nổ ra là điều không thể tránh khỏi. Lúc bấy giờ, mặc dù trong triều đình có rất nhiều thế lực ngăn cản, song Tôn Thất Thuyết vẫn không hề nao núng. Ông cùng những người trong phái chủ chiến bí mật triển khai các công việc chuẩn bị kháng chiến. Tôn Thất Thuyết quyết định lập đội “Phấn nghĩa quân”, cho tuyển dụng người thân cận, những người có tinh thần chống Pháp sung vào đội quân này. Rồi ông chia thành các đội, các vệ; xây dựng chương trình và tổ chức cho luyện tập võ nghệ, tập đánh trận. Với tầm nhìn chiến lược và nhãn quan quân sự sắc sảo, Tôn Thất Thuyết cho mở “đường thượng đạo”, cử người ra xây dựng sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị), tích trữ vũ khí, lương thực tại đây; đồng thời ông cũng cho củng cố lại các sơn phòng Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa để làm nơi đứng chân khi cuộc chiến kéo dài.

Tháng 7-1884, thực dân Pháp cho quân đánh chiếm đồn Mang Cá và ngang ngược đòi triều đình Huế phải gỡ bỏ tất cả khẩu đại bác trên mặt thành giao lại cho phía Pháp. Tuy nhiên, Tôn Thất Thuyết kiên quyết cự tuyệt đòi hỏi vô lý đó và bí mật cho chuyển các khẩu đại bác đến bố trí ở những vị trí khác. Nhận thấy Tôn Thất Thuyết là “chướng ngại vật nguy hiểm” trên con đường thôn tính Việt Nam, Bộ Ngoại giao Pháp đã chỉ thị cho viên Trú sứ Pháp ở Huế “không thể không trừng trị hành vi của viên Thượng thư Bộ Binh nước Nam”; đồng thời báo cho triều đình Huế biết rằng nhà cầm quyền Pháp không thể chịu được việc Tôn Thất Thuyết còn giữ chức Phụ chính lâu hơn được nữa.

Không thể khuất phục được Tôn Thất Thuyết và các chiến hữu của ông trong phe chủ chiến, ngày 2-7-1885, De Courcy chỉ huy một đạo quân kéo từ ngoài Bắc vào kinh thành Huế với ý định nhanh chóng tiêu diệt lực lượng chủ chiến trong triều và tìm cách dụ thủ lĩnh Tôn Thất Thuyết ra khỏi thành để bắt sống; nếu không được thì có thể thủ tiêu. Nhận rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, Tôn Thất Thuyết chủ động ra tay trước. Lợi dụng lúc địch chủ quan đang say sưa dự yến tiệc ở Tòa Khâm sứ, ông bí mật chia quân làm hai đạo và cùng với Tôn Thất Lệ và Trần Xuân Soạn chỉ huy đánh úp Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá. Bị đánh bất ngờ, quân Pháp thiệt hại nặng. Song do tương quan lực lượng quá chênh lệch, địch lại chiếm ưu thế về hỏa lực nên Tôn Thất Thuyết buộc phải cho quân rút lui. Sáng 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị)-nơi trước đó ông đã ngầm chuẩn bị. Tại đây, ngày 13-7-1885, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã phát chiếu Cần Vương (lần thứ nhất), kêu gọi dân chúng phò vua, cứu nước.

leftcenterrightdel
 Một góc phố Tôn Thất Thuyết tại Cầu Giấy, Hà Nội. Ảnh: THU THỦY

Lưu lại Tân Sở một thời gian ngắn, nhận thấy nơi đây không còn an toàn, Tôn Thất Thuyết quyết định đưa vua Hàm Nghi và đoàn xa giá tìm đường ra Thanh Hóa, nơi mà trước đó, ông cũng đã ngầm cho người chuẩn bị căn cứ. Tuy nhiên, mới ra tới Quảng Bình thì bị quân Pháp bao vây phục kích nên Tôn Thất Thuyết quyết định đưa cả đoàn quay lại Quảng Trị, rồi sau đó lên Lao Bảo, bám dọc theo biên giới Việt-Lào tìm đường ra Bắc. Đến Hà Tĩnh, cả đoàn xa giá được Nguyễn Chính đón và đưa về sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê). Suốt cuộc hành trình đầy gian truân, vất vả, không ít vị quan đã lần lượt bỏ vua mà quay lại. Mặc dù vậy, Tôn Thất Thuyết cùng với hai người con trai là Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Thiệp và một số quan trung thành khác, như: Trần Xuân Soạn, Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân... vẫn sát cánh bên vua Hàm Nghi tới cùng. Ngày 20-9-1885, tại sơn phòng Ấu Sơn, nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã viết chiếu Cần Vương (lần thứ hai). Ông tiếp tục vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và tính chất bất hợp pháp của ông vua bù nhìn Đồng Khánh; kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên kháng Pháp, khôi phục nền độc lập dân tộc. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, một cao trào yêu nước chống Pháp bùng lên mạnh mẽ và nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Uy tín và tầm ảnh hưởng của Tôn Thất Thuyết theo đó ngày càng lớn và lan xa.

Nhận thấy mối nguy hiểm đang hiện hữu, thực dân Pháp và chính quyền tay sai tìm mọi cách bắt cóc Hàm Nghi và thủ tiêu Tôn Thất Thuyết cùng triều đình kháng chiến, ngăn chặn sự ảnh hưởng lan rộng của phong trào Cần Vương. Chúng tung nhiều toán quân lùng sục khắp vùng rừng núi các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh nhằm tìm kiếm tung tích và tiêu diệt cơ quan đầu não Phong trào Cần Vương. Trước tình thế ngày càng khó khăn, giữa năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã giao cho hai con trai cùng các thủ lĩnh ở lại bảo vệ vua Hàm Nghi, còn mình tìm đường sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Tiếc rằng, lúc bấy giờ Tôn Thất Thuyết không biết trước đó nhà Thanh đã có sự thỏa hiệp với Pháp thông qua bản Hiệp ước Thiên Tân (6-1885). Theo đó, nhà Thanh đã hoàn toàn nhượng bộ và công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Do vậy mà chuyến đi cầu viện đầy khó khăn thử thách của Tôn Thất Thuyết đã thất bại. Mặc dù vậy, trong thời gian lưu lại Hoa Nam (Trung Quốc), Tôn Thất Thuyết vẫn tìm cách móc nối với một số thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa trong nước ở vùng núi phía Bắc, góp phần thúc đẩy phong trào nổi dậy chống Pháp tại miền biên viễn phát triển.

Năm 1896, dưới sức ép của nhà cầm quyền Pháp, nhà Thanh đã trở mặt đưa Tôn Thất Thuyết đi an trí ở Long Châu, rồi Thiều Châu (Trung Quốc). Lúc này, Phong trào Cần Vương ở trong nước đang đi dần vào giai đoạn thoái trào. Những năm tháng cuối đời sống tha hương nơi đất khách quê người, Tôn Thất Thuyết hết sức đau buồn và phẫn uất. Ông mất ngày 22-9-1913.

Là một thủ lĩnh tài ba của phe chủ chiến, người khởi phát Phong trào Cần Vương kháng Pháp, Tôn Thất Thuyết không chỉ có tinh thần kiên quyết kháng chiến, sẵn sàng xả thân, chấp nhận hy sinh vì nghĩa lớn, vì nền độc lập dân tộc mà ông còn luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích gia đình và dòng tộc. Ông là tâm điểm quy tụ tất cả người thân trong gia đình cống hiến, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Mẹ và vợ Tôn Thất Thuyết đều theo đoàn xa giá vua Hàm Nghi và phải chấp nhận cái chết dọc đường vì sơn lam, chướng khí. Người con cả Tôn Thất Đàm tự sát khi việc lớn không thành; người con thứ Tôn Thất Thiệp  hy sinh trong khi bảo vệ vua Hàm Nghi. Còn cha ông là Tôn Thất Đính thì bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo và bỏ xác ngoài đó. Những người em của ông đều là các thủ lĩnh của Phong trào Cần Vương, trong số đó, người hy sinh, người bị giặc bắt. Thật hiếm có một gia đình trong triều đại phong kiến nào mà cả gia quyến đều tham gia kháng chiến và đều có những đóng góp vào công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc.

TRẦN VĨNH THÀNH