Tháng 3-1967, khi vừa bước sang tuổi 18, chàng trai Đào Văn Kim nhập ngũ vào Đại đội 3, Tiểu đoàn 331, Trung đoàn 568 (Quân khu 3). Ngày 15-11-1967, Đào Văn Kim cùng đơn vị đi B. Sau 6 tháng vừa hành quân vừa chiến đấu, đồng chí Kim được biên chế về đơn vị thuộc Tỉnh đội Long An. Thời gian này, đồng chí tham gia 18 trận đánh trên địa bàn tỉnh Long An. Ngày 30-3-1968, chiến sĩ Đào Văn Kim vinh dự được kết nạp Đảng.  

Ngày 30-12-1968, trong một trận chống càn, Đào Văn Kim bị thương và bị địch bắt đưa về Chi khu Đức Huệ (huyện Đức Huệ, tỉnh Long An). Sau đó, đồng chí tiếp tục bị đày qua Nhà lao Biên Hòa và Nhà tù Phú Quốc. Mặc dù kẻ thù dùng mọi cực hình tra tấn dã man nhưng đồng chí Kim vẫn kiên quyết không khai. Ra đến Phú Quốc, đồng chí bị địch đưa về giam ở khu D5, là nơi giam giữ những chiến sĩ kiên trung, chống lại mọi thủ đoạn mua chuộc, cưỡng bức của kẻ thù. Tại đây, đồng chí tham gia các phong trào đấu tranh: Chống ly khai, chống tố cộng, chống chào cờ ngụy, vượt ngục, tuyệt thực, bảo vệ lý tưởng cộng sản, bảo vệ uy tín của Đảng, của Bác Hồ kính yêu... Ở đây, đồng chí Kim bắt liên lạc được với tổ chức đảng trong tù và được bầu làm Chi ủy viên kiêm Phó bí thư Liên chi đoàn tại Nhà tù Phú Quốc. Qua mỗi lần đấu tranh, đồng chí lại được địch “quan tâm đặc biệt” và chuyển qua các trại: D5, B5, A1, C4, C8, B7, C10.

leftcenterrightdel
  Lá thư vĩnh biệt của cựu tù Đào Văn Kim đang được lưu giữ tại Bảo tàng Bắc Ninh. Ảnh chụp lại

Những trận đòn roi không ngừng cùng với chế độ ăn uống tồi tệ của nhà tù đã làm cơ thể người tù cộng sản suy kiệt. Để phản đối các chính sách hà khắc, tàn ác của bọn quân cảnh và cai ngục, đồng chí Đào Văn Kim cùng anh em trại C10 tổ chức tuyệt thực, đòi cải thiện chế độ của người tù. Cuộc tuyệt thực diễn ra từ ngày 7-8-1972. Thông thường, các cuộc tuyệt thực trước đó chỉ diễn ra từ 4 đến 5 ngày địch đã buộc phải nhân nhượng, nhưng lần này đến ngày thứ 13 mà kẻ thù vẫn không có động thái gì. Trước tình hình đó, cấp ủy họp và xác định tinh thần quyết tâm đấu tranh đến cùng, dù phải hy sinh. Đồng chí Đào Văn Kim và Hoàng Gia Lượng (Hà Nội) xung phong nhận nhiệm vụ sẵn sàng quyết tử bằng hình thức tự thiêu. Phương án cụ thể là một người đọc bản cáo trạng tố cáo tội ác của Mỹ-ngụy, còn người kia cầm đuốc châm lửa sẵn để bọn địch không thể vào được. Kế hoạch và phương án đưa ra được chi bộ chấp thuận nhưng chỉ được hành động khi có sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Cang, Bí thư chi bộ.

leftcenterrightdel

 Cựu tù Đào Văn Kim kể chuyện với tuổi trẻ thị xã Quế võ, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: NGỌC AN

Trước khi tự thiêu, đồng chí Đào Văn Kim đã viết một lá thư vĩnh biệt, nhờ anh em bạn tù sau này chuyển về gia đình. Lá thư được viết ngày 20-8-1972 trên giấy carton đóng hàng của Mỹ. Trong lá thư có đoạn: “... Lá thư hôm nay con viết về gia đình cũng là lá thư cuối của đời con, cũng là lần cuối cùng gia đình nghe tiếng con trăng trối. Biết đâu rằng sau một, hai năm hay nhiều hơn nữa gia đình mới nhận được thư con... Con sẽ hy sinh cho Đảng, Đảng đang cần con...

Ngày thứ 13 rồi, con không một hạt cơm trong dạ, địch đã bỏ đói hàng nghìn người như thế. Biết bao đồng chí của con đang nằm chờ chết. Không thể để đồng đội phải hy sinh thêm nữa. Con sẽ hy sinh, con sẽ thiêu mình... Con chết đi để đồng đội khỏi đau thương. Con thiêu mình mãi mãi là bó đuốc, là bản cáo trạng tố cáo chế độ độc tài, đế quốc. Nhiệm vụ con làm chỉ thiệt thòi cho cá nhân mà có lợi cho tập thể thì đây là vinh quang. Con đã hoàn thành nghĩa vụ với non sông, đất nước, xứng đáng là con của bố mẹ, cháu của chú thím, anh của các em. Chào vĩnh biệt! Con rất tự hào và yên tâm, phấn khởi!”.

May mắn là kế hoạch chưa kịp thực hiện thì ngày 22-8-1972, sau 15 ngày tuyệt thực, bọn cai ngục đã nhượng bộ một số yêu sách cho anh em tù nhân. Cuộc đấu tranh phản đối chế độ hà khắc của nhà tù tại trại C10 giành thắng lợi.

leftcenterrightdel
Cựu tù Đào Văn Kim (đứng hàng trên) gặp mặt, giao lưu với khách tham quan khu trưng bày lưu động của Bảo tàng Bắc Ninh tại huyện Yên Phong, tháng 9-2022. Ảnh: NGỌC AN

Suốt 4 năm 3 tháng 14 ngày sống trong nhà tù đế quốc là những năm tháng đầy gian khổ, người chiến sĩ cách mạng Đào Văn Kim và các đồng chí của mình đã sống, chiến đấu tại nơi “địa ngục trần gian” với đôi chân trần, chí thép. Ngày 14-3-1973, đồng chí Kim được trao trả tự do theo điều khoản của Hiệp định Paris và được trở về an dưỡng ở Quảng Ninh. Tại đây, ông gặp lại hai người đồng đội là Phạm Thanh Minh (ở Thái Bình) và Hà Văn Tháo (tức Phạm Văn Tính, quê ở Hưng Yên) cùng phòng giam năm xưa. Họ đã cùng nhau chép lại lá thư ông viết trước khi tự thiêu. Lá thư đó được ông trao tặng Bảo tàng Bắc Ninh lưu giữ và trưng bày...

Hiện nay, ông Đào Văn Kim có cuộc sống yên ấm bên gia đình cùng con cháu và thường xuyên sinh hoạt cùng Hội Cựu chiến binh địa phương. Khi được hỏi về những năm tháng bị tù đày, tra tấn và đấu tranh anh dũng tại các nhà tù của đế quốc, ông chia sẻ: “Bao nhiêu năm qua, mỗi lúc nghĩ đến việc xung phong tự thiêu, tôi thấy mình đã xứng đáng với sự tin yêu của đồng chí, đồng đội”.

PHAN THỊ AN NGỌC