Năm 1940, đang học ở Trường Kỹ nghệ thực hành Sài Gòn, tôi được tin cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã bùng nổ ở quê nhà (Long Hưng, Châu Thành, Mỹ Tho) và nhiều nơi khác. Sốt ruột, tôi xin phép về thăm gia đình. Trên đường đi, tôi thấy hai hàng cây me bên đường đều bị quân khởi nghĩa đốn vắt ngang đường. Cột dây thép trên Quốc lộ 4 cũng bị kéo ngã để chặn không cho xe ô tô đi lại. Nhà cửa trong làng đều bị quân Pháp đốt sạch. Chúng đã càn quét, bắn giết và bắt nhiều người tham gia khởi nghĩa. Số còn lại phải trốn đi các nơi. Trâu, bò bị bắn chết trương sình khắp cánh đồng...

Thấy tôi về, anh tôi cùng vài bạn thanh niên đang ẩn nấp trong vườn ra gặp và kể cho tôi nghe: Đêm 22-11, người dân Long Hưng và khu vực lân cận được thông báo lệnh khởi nghĩa nên đã nổi dậy. Trống mõ vang trời. Quần chúng cách mạng mang theo mác, dao, gậy gộc ùn ùn đi ra lộ. Người vác cờ búa liềm, người vác cờ đỏ sao vàng rầm rập kéo đến các đồn và nhà làm việc của hội tề Thạnh Phú ở chợ Xoài Hột. Lính trong đồn bắn ra nhưng quân khởi nghĩa vẫn dũng cảm tràn vào. Trong phút chốc, lính đồn bị bắt sạch.

leftcenterrightdel

Đình Long Hưng, trụ sở của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho. Ảnh tư liệu 

Quân khởi nghĩa chiếm đồn, thu súng và đốt luôn đồn. Ngọn lửa đốt đồn Thạnh Phú bốc cao, động viên nghĩa quân tấn công chiếm đồn các xã lân cận. Đến 12 giờ trưa 23-11, lực lượng khởi nghĩa đã hạ xong đồn Thạnh Phú, Tam Hiệp, Phước Thạnh, Cầu Đúc... Trụ sở của hội tề các xã đều bị hạ. Các mũi tiến công lần lượt kéo về đình Long Hưng, tuyên bố thành lập chính quyền công nông.

Khoảng 5 giờ chiều hôm đó, viên chỉ huy người Pháp tên là Peter dẫn đầu một toán lính chừng 50 tên, từ Bình Đức đi xe vào chợ Xoài Hột rồi thẳng lên cầu Thầy Tùng. Tuy cây cầu chưa sập nhưng ván mặt cầu đã gỡ hết. Hai cây cau bắc qua hai đầu cầu, xe không qua được. Bọn giặc xuống xe dàn ra, bắn xối xả về phía bên kia cầu.

Bấy giờ gần tối nên anh em du kích đã vào xóm ăn cơm, chỉ còn một mình anh Bảy Quới thủ khẩu súng đạn ria hai nòng. Nghe tiếng xe, anh núp vội vào bụi rậm dưới gốc cây xoài. Đạn giặc rít trên đầu, anh vẫn bình tĩnh chờ đợi. Đợi toán lính ra đến giữa cầu, anh mới nổ súng. Tên Peter rơi ngay xuống sông, chìm nghỉm.

Bọn lính hốt hoảng kéo nhau vừa chạy ngược lại vừa bắn hú họa vào những bụi rậm bên đường rồi lên xe chạy về thị xã Mỹ Tho. Nghe tiếng súng, anh em du kích vội chạy ra. Bảy Quới và anh em lặn xuống sông tìm kéo xác tên chỉ huy người Pháp lên, lấy được 1 khẩu súng lục. Đêm đó, quân khởi nghĩa hạ hai hàng me chắn đường từ Xoài Hột lên Long Hưng.

Trận đánh không cân xứng về lực lượng nhưng nhờ sự dũng cảm, táo bạo, bí mật, bất ngờ mà quân khởi nghĩa đã giành được thắng lợi: Chỉ bằng 1 khẩu súng hai nòng đã giết được tên chỉ huy người Pháp, thu 1 súng lục, đẩy lùi gần 1 đại đội địch.

Mấy hôm sau, 4 tàu tuần giang theo kênh xáng Xà No vào Long Hưng. Du kích phục hai bên bờ kênh bắn xuống tàu, đồng thời gõ trống, mõ, phèn la như sấm dậy. Địch chưa dám đổ bộ, phải tháo lui. Sau đó, chúng cho máy bay ném bom đình Long Hưng, chợ Vĩnh Kim, ấp Long Bình rồi huy động hàng trung đoàn lính lê dương, lính bộ binh thuộc địa, lính ngụy Thái kéo đến Long Hưng và các vùng xung quanh, gặp ai giết nấy, đốt nhà, hãm hiếp, bắt bớ, cướp của. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại.

Nghe kể chuyện và chứng kiến cảnh quê nhà, xóm làng điêu tàn, nghèo khổ, tang thương, tôi như đứt từng khúc ruột. Một điều an ủi là các anh mà tôi quen biết vẫn còn sống. Thế nhưng vào kỳ nghỉ Tết Nguyên đán năm đó, khi về quê, tôi lại nghe tin sét đánh.

Hôm ấy, dẫn tôi vào cánh đồng cách nhà chừng 1km, chỉ vào đống máu đã khô thành màu đen sát bên bờ trâm bầu, anh trai tôi kể: Sau trận đánh ở cầu Thầy Tùng, quyết tâm trả thù, địch huy động lực lượng sục sạo từng đám ruộng, bao vây Gò Me và các gò trâm bầu xung quanh. Thấy vòng vây ngày một siết chặt, các anh: Bảy Quới, Bảy Ghè, Huân, Năm Giác ẩn tại gò trâm bầu giáp ranh giữa Long Hưng và Phước Thạnh quyết hy sinh chứ nhất định không để địch bắt.

Khi giáp chiến với kẻ thù, thấy địch sơ hở, anh Bảy Quới bất ngờ phóng dao vào ngực tên cai Công khiến hắn bị thương, ngã sấp xuống ruộng. Bọn lính theo sau bắn hàng chục phát súng khiến anh lảo đảo ngã gục, hy sinh tại chỗ. Những người khác bị bắn, nằm trên vũng máu, địch khiêng về chợ Xoài Hột rồi chở xuống nhà thương Mỹ Tho điều trị. Sau khi lành vết thương, các anh bị địch dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn hòng tìm ra các tổ chức của Đảng. Không khai thác được gì, chúng đưa các anh lên tòa án ở Sài Gòn xét xử. Anh Năm Giác và Bảy Ghè bị kết án tử hình, anh Huân chịu án chung thân, bị đày ra Côn Đảo.

Khí phách anh hùng của những chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa khiến tôi vô cùng khâm phục, quyết chí noi theo. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, kế đó là Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi tham gia dân quân. Chuyện anh Bảy Quới đánh thắng địch và chuyện thà chết chứ không để cho giặc bắt của 4 chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa ở quê hương là bài học vô giá với tôi trong suốt quá trình công tác.

Sau này, tôi về chỉ huy Tiểu đoàn 305, rồi Tiểu đoàn 307 của Quân khu 8. Vận dụng chiến thuật du kích và du kích vận động chiến từ thời Nam Kỳ khởi nghĩa, đơn vị chúng tôi đã chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Năm 1954, tôi tập kết ra Bắc, được cử đi đào tạo ở nước ngoài. Về nước, tôi công tác trong lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam, rồi đảm nhiệm các cương vị: Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Hiệu trưởng Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự, Phó tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia và nghỉ hưu năm 1994 với quân hàm Trung tướng.

Tháng 5-1994, trong một dịp về quê nhà, tôi cùng đoàn cán bộ từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ trở lại nơi 4 chiến sĩ Nam Kỳ đã chiến đấu, bị bắt và hy sinh. Đối với tôi cũng như nhiều thế hệ người con quê hương Long Hưng, tấm gương dũng cảm của anh Bảy Quới và các đồng đội luôn sáng mãi.

ÁNH NGUYỆT(*)

(*) Theo lời kể của Trung tướng Nguyễn Văn Tiên (1924-2003)