Cựu chiến binh Nguyễn Hồng Thước kể: “Tháng 10-1970, tôi được biên chế về Đại đội 18, Trung đoàn 101, Sư đoàn 1. Tháng 9-1972, khi cùng đơn vị làm nhiệm vụ tại tỉnh Tà Keo (Campuchia), đơn vị tôi được lệnh bí mật về nước chiến đấu ở khu vực Bảy Núi, tỉnh An Giang. Từ Tà Keo về An Giang, chúng tôi phải vượt qua kênh Vĩnh Tế dài hơn 100km, rộng khoảng 40m, nằm sát với đường biên giới của hai nước. Bên bờ kênh thuộc tỉnh An Giang dày đặc đồn, bốt quân địch, dưới kênh là tàu chiến, ca nô tuần tra không kể ngày đêm.
Không chỉ vậy, địch còn bày bố trận địa pháo và cho biệt kích phục sẵn ở những cánh đồng nhằm ngăn chặn bộ đội Việt Nam qua lại biên giới. Hôm ấy, trời vừa chập tối, chúng tôi hành quân từ tỉnh Tà Keo băng qua các bìa rừng, vùng bùn lầy mất khoảng hai tiếng mới đến bờ kênh Vĩnh Tế. Đêm thứ nhất, đêm thứ hai, chúng tôi chưa thể vượt kênh do lực lượng địch tập trung lùng sục, truy quét khắp nơi.
Sang đến đêm thứ ba, khi không thấy động tĩnh của địch, Đại đội 18 chúng tôi cùng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn được lệnh vượt kênh. Anh em cẩn thận gói quần áo vào vải mưa bơi qua kênh. Khi đến giữa kênh thì chúng tôi bị trực thăng của địch phát hiện và báo về sở chỉ huy. Liền sau đó, pháo, đạn của địch từ trên bờ liên tục nã xuống. Dưới làn hỏa lực của địch, lại không có chỗ ẩn nấp, nhiều đồng chí đã hy sinh. Riêng Đại đội 18 của tôi có 10 cán bộ, chiến sĩ hy sinh”.
    |
 |
Đại tá Nguyễn Hồng Thước (giữa) cùng đồng đội. Ảnh: NINH NHI |
Sau khi vượt kênh Vĩnh Tế vào đến khu vực Bảy Núi, Trung đoàn 101 khẩn trương phân công lực lượng tổ chức doanh trại và lập trận địa tại các vị trí khác nhau. Đại đội 18 được Trung đoàn 101 giao nhiệm vụ phòng ngự tại đỉnh núi Dài (nay thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), đồng thời phối thuộc với Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 9 để giải phóng các ấp trên địa bàn thị trấn Ba Chúc.
Thời gian đầu, ông Thước cùng đồng đội giả làm dân địa phương xuống các khu, ấp để thăm dò địch. Sau khi đã nắm rõ tình hình, biết địch thường xuyên tách từng nhóm nhỏ, di chuyển vào ban ngày, ông về báo cáo với Đại đội. Những ngày sau, ông và đồng đội thay nhau xuống bãi sắn vừa để trinh sát, vừa tập kích địch, rồi nhanh chóng rút về căn cứ. Những trận đánh nhỏ, lẻ diễn ra liên tục đã làm tiêu hao phần lớn sinh lực địch.
Ông Thước nhớ lại: “Cuối tháng 10-1972, tôi là Trung đội phó. Trong một lần đi trinh sát, tôi cùng 4 đồng chí xuống bãi sắn cách chân núi khoảng 500m thì phát hiện bãi mìn Claymore của địch. Thấy dấu vết mìn mới được gài, tôi đoán địch đang ở gần đây liền hiệp đồng với anh em không được manh động, giữ bình tĩnh, bò di chuyển để tránh bị phát hiện. Nếu thấy địch, tôi sẽ là người nổ súng đầu tiên, sau đó, các đồng chí cùng nổ súng rồi nhanh chóng rút về căn cứ do lực lượng mỏng”.
Đúng như dự đoán, di chuyển khoảng 50m, ông Thước phát hiện một số tên địch trong bãi sắn, liền ra ám hiệu cho anh em tiến sát thêm 30m thì thấy khoảng 20 tên đang ở một chỗ. Vì đã hiệp đồng thống nhất, sau tiếng súng của ông, đồng chí Sinh và một đồng chí khác cùng lúc bắn B40, B41, các đồng chí còn lại dùng AK bắn về phía địch. Ngay sau đó, ông Thước và đồng đội nhanh chóng lẩn vào bãi sắn, rút về căn cứ. Sau này, đài kỹ thuật của Trung đoàn 101 thông báo, trong trận đánh hôm ấy, quân địch có hơn 10 tên bị thương và bị tiêu diệt.
PHƯƠNG NINH