Đầu năm 1974, Trung đoàn 9 (Sư đoàn 968) chúng tôi đã về bổ sung và chiến đấu trong đội hình của Sư đoàn 320 ở Tây Nguyên một thời gian. Lúc đó, dù khẩu phần ăn có 4 lạng gạo một ngày nhưng một năm cũng chỉ được cấp 8 tháng, còn 4 tháng phải tự túc. Bên cạnh nhiệm vụ tác chiến, các đơn vị chưa ra tuyến trước phải bắt tay ngay vào việc phát rẫy quanh khu vực trú quân và đến khu sân bay cũ Đức Cơ lấy hom sắn về trồng. Thời gian đầu, chúng tôi phải “vay” tạm sắn của các đơn vị bạn.

Đại đội trưởng Lê Đức Chèo của Đại đội 6, Tiểu đoàn 2 chúng tôi là nông dân chính hiệu, quê đất quan họ ở vùng giáp bán sơn địa. Anh hiểu sự hạn chế khi phải ăn sắn dài ngày nên sau khi quan sát mấy nương lúa nhỏ của đồng bào dân tộc thiểu số đã đề nghị Tiểu đoàn phương án trồng lúa nương. Thật may là chỉ huy Tiểu đoàn, rồi Trung đoàn phê duyệt.

Đã sang tháng 3, nhóm trinh sát chúng tôi được cử đi về phía Tây căn cứ Chư Nghé, tới sông Ba tìm đất tăng gia. Nơi này cách xa khu hậu cứ tới 5, 6 giờ đi đường. Thật may, sau vài ngày lùng sục và tìm kiếm, chúng tôi chọn được một vùng đồi rộng lớn tới vài chục héc-ta nằm sát bên sông Ba, rất phù hợp cho phát rẫy làm nương, lại có cả suối chảy qua.

Chúng tôi về báo cáo Tiểu đoàn rồi đến khu tăng gia để phát rẫy. Tháng 3 ở Tây Nguyên là mùa làm nương phát rẫy của đồng bào. Thời gian này, bầu trời thường xanh trong và đầy nắng. Đại đội trưởng Chèo thật khéo chọn ra mấy chiến sĩ người dân tộc thiểu số để phụ trách các nhóm. Các anh hướng dẫn cách chặt cây xếp lớp để khi đốt không bị cháy “lỏi”. Tranh thủ thời gian không ra tuyến trước, các đại đội chia nhau phát rẫy. Đến cuối tháng 3 thì mấy chục héc-ta rẫy của chúng tôi đã phát xong, đơn vị lại ra tuyến trước.

leftcenterrightdel

Nhà văn Vũ Công Chiến (bên phải) và Đại đội trưởng Lê Đức Chèo. Ảnh: CÔNG VŨ 

Chừng cuối tháng 5, khi đã có những trận mưa đầu mùa, Trung đoàn phát cho chúng tôi thóc giống để trồng lúa. Chúng tôi trồng lúa nương bắt chước đúng theo kiểu người địa phương. Một người đi trước hai tay hai cái cọc nhọn, chọc mạnh xuống đất tạo thành hai hàng lỗ, cách nhau chừng gang tay và sâu độ chục phân. Một người đeo túi thóc đi sau, lom khom bốc bỏ vào mỗi lỗ một nhúm chừng dăm bảy hạt thóc rồi lấy chân gạt đất lấp lại. Tất cả đơn vị chia tốp, đi giăng thành hàng như thế từ đầu nương đến cuối nương. Mỏi lưng thì lại đổi cho nhau. Chỉ sau ít ngày đã thấy mầm lúa nhô lên, trông rất đẹp mắt.

Xung quanh các nương, đơn vị cho trồng toàn bộ sắn. Mọi việc đã xong, đơn vị lại ra tuyến trước. Tiểu đoàn tổ chức một đội tăng gia hơn 10 người do một trợ lý trên Tiểu đoàn phụ trách. Họ sẽ làm lán ở lại đây lâu dài suốt cả mùa rẫy.

Rồi cũng đến mùa lúa chín. Cả đơn vị bồi hồi đến ngây ngất khi nhìn những nương lúa chín vàng trải dài trên cả một vùng đồi nương rộng lớn. Thành quả của chúng tôi đấy!

Cơ quan Trung đoàn kịp gửi cho đơn vị những chiếc liềm gặt lúa. Lính tráng gốc nông dân được dịp trổ tài. Tiểu đoàn khoanh khu vực cho các đại đội gặt lúa. Chúng tôi gặt lúa rồi bó, xỏ đòn xóc gánh về tấp nập như làng quê ngày mùa. Rồi đan liếp làm kho, quây dọn bãi làm sân, tìm đá làm cối và dùng cù nèo đập lúa... Mỗi chiều về, xuống suối tắm, những chỗ da bị thóc cào xước gặp nước đỏ ửng và xót ngứa nhưng nét mặt ai cũng hồ hởi, rạng ngời, chẳng kém gì nông dân vui thu hoạch ngày mùa. Hãnh diện nhất là mấy thằng lính dân thành phố như tôi. Viết thư về nhà chắc bố mẹ ngạc nhiên lắm!

Chỉ trong vài ngày, cả Tiểu đoàn đã thu hoạch xong lúa, cất kho. Lúc này là mùa khô, nắng to nên không có công đoạn phải phơi thóc như ở nhà. Vả lại thời gian đối với chúng tôi cũng không có nhiều. Hậu cần Tiểu đoàn tập trung thóc cất vào các kho, ước đến 50 tấn. Suy ra, một héc-ta nương lúa của chúng tôi cũng thu hoạch được đến gần hai tấn thóc. Còn kém xa những cánh đồng lúa năm tấn ngoài Bắc, nhưng kết quả này thật đáng khích lệ.

Trung đoàn còn phân công những chiến sĩ ở nhà có nghề “phó cối” đóng cối xay và làm cối giã gạo. Háo hức ghê lắm khi nghĩ tới lúc được thưởng thức bát cơm gạo mới do chính mình làm ra. Nhưng chưa kịp ăn bữa cơm gạo mới thì cả Tiểu đoàn nhận lệnh ra tuyến trước. Số thóc gạo tăng gia của đơn vị được bàn giao cho bộ đội địa phương. Tiểu đoàn 2 tập trung đánh tiêu diệt một tiểu đoàn biệt động quân của địch lấn dũi ra phía Bắc cao điểm 631. Sau trận đó ít ngày, chúng tôi lại nhận lệnh di chuyển địa bàn xuống Đắk Lắk. Rồi Chiến dịch Tây Nguyên nổ ra. Chúng tôi cứ theo đà chiến dịch đi mãi cho tới ngày toàn thắng.

Nhà văn VŨ CÔNG CHIẾN