Qua cổng điện tử của Công an xã Tân Pheo (tỉnh Phú Thọ), tôi nhờ tìm đồng đội tên Lường Văn Sót, cựu chiến binh của chiến dịch Quảng Trị năm 1972. Sau nửa tháng, Công an xã Tân Pheo đã “trả kết quả” cho tôi bằng tấm ảnh một ông già gầy đen, khắc khổ. Nhận tấm ảnh, tôi cố ngắm nhìn để tìm dấu vết khuôn mặt tuổi 20 trắng trẻo năm xưa nhưng không thấy. Chỉ đến khi được cung cấp số điện thoại, gọi điện hỏi thăm, tôi mới tin mình đã tìm ra đồng đội Lường Văn Sót. Người mà hơn 50 năm trước đã đi tìm tôi hai lần giữa những bãi bom mìn tại Quảng Trị.
Đầu mùa mưa năm 1972, Đại đội 6, Tiểu đoàn 12, Trung đoàn 58, Sư đoàn 308 do không đủ xe kéo pháo vào sâu ngoại thành Quảng Trị nên đã cử tôi cùng đồng chí Tiểu đội trưởng ở lại trông coi mấy tấn đạn, gạo cùng hơn 10 chiếc ba lô liệt sĩ. Chúng tôi chờ xe đơn vị kéo pháo vào, rồi mấy đêm sau sẽ quay ra đón. Nhưng “kịch bản” trên đã bị phá sản. Đại đội tập kết vào trận địa thì bị pháo địch bắn cháy xe, hỏng pháo, phải chuyển sang đánh bằng súng AK và súng 12,7mm. Đang u sầu về chuyến xe bị vùi dập trong trận bom thì Tiểu đội trưởng của tôi bị thương phải đi viện, để tôi ở lại một mình. Sau nửa tháng sống đơn độc giữa bãi bom B-52, tôi không chịu nổi, phải bỏ hầm, đi tìm một đơn vị nào đó ở nhờ. Lần theo vết xe pháo và ngửi mùi khói đạn pháo 130mm, tôi đã tìm ra một trận địa mới của Trung đoàn Bông Lau (Trung đoàn Pháo binh 38). Ăn nhờ ở đậu, “chiến đấu nhờ” được một tuần, Đại đội pháo 130mm bị lộ trận địa, đồng đội chết và bị thương quá nửa. Trước khi rút lui ra hậu cứ Vĩnh Linh, Đại đội phó khuyên tôi theo đồng chí ra Bắc, chuyển đơn vị mới: “Cầm súng ở đâu cũng vẫn là lính chiến, vẫn là Bộ đội Cụ Hồ. Anh ở đây một mình, chắc chết”.
Tôi thu xếp ba lô, chuẩn bị lên đường theo người chỉ huy mới, chợt nghe tiếng súng AK bắn nhịp 3, tín hiệu báo cấp cứu. Tiếng nổ từ xa, mỗi lúc một gần. Ôm ba lô chạy khỏi hầm, tôi nhận ra chàng lính người Tày, tên Lường Văn Sót. Chúng tôi lao vào nhau, định ôm, nhưng anh Sót khựng lại, không ôm, chỉ hỏi: “Có gì ăn không?”, rồi ngồi thụp xuống. Hóa ra, anh ấy đã đói lả. Tuần trước, anh nhận lệnh lên đường ra đây tìm tôi ở trận địa cũ không thấy phải quay về, lần này, quay ra bắn súng báo hiệu mới tìm ra tôi. Bằng phép màu nào đó, đoạn đường chúng tôi vừa chạy, vừa lao đến nhau là bãi mìn lá và bom nổ chậm, may mắn hai người không dính.
    |
 |
Cựu chiến binh Lường Văn Sót (hàng ngồi, thứ hai, từ trái sang) và đồng đội. Ảnh: NINH NHI
|
Những ngày chốt giữ Thành cổ Quảng Trị, Lường Văn Sót nổi tiếng vì hay đi công tác một mình, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ nguy hiểm, khoác AK đi trong chiến địa. Đi lấy gạo, lấy thuốc men, đi tăng cường cho đơn vị công binh đào hầm, đi tìm “lính lạc trận”... Tất cả anh Sót chỉ cần một khẩu AK, hai băng đạn. Nghĩ đến anh, đơn vị hình dung ngay đến hình ảnh chú liên lạc trong thơ Tố Hữu: “Cái chân thoăn thoắt/ Cái đầu nghênh nghênh/.../ Như con chim chích/ Nhảy trên đường vàng...”. Ai cũng biết chiến trận dày đặc bom đạn, ra khỏi hầm, tách khỏi tập thể đơn vị thì nên đi hai người, anh Sót rất biết điều đó, nhưng vẫn nhận nhiệm vụ một mình, vui vẻ.
Giữa những ngày Hà Nội náo nức mừng Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9, cũng là lần thứ hai chúng tôi lại tìm được nhau. Đội mưa bão số 3, tôi cố chụp ảnh kỷ niệm Thủ đô cho anh. Đánh trận xong sau 50 năm, da anh ngày một đen, dáng người nhỏ nhắn và chưa một lần đi dạo Hồ Gươm. Hỏi anh lương hưu bao nhiêu. Anh kể lại, đơn vị cho anh tờ quyết định chuyển ngành về công ty lâm nghiệp, nhưng anh bị kẻ trộm lấy mất hết giấy tờ. Vì vậy, anh về quê làm thợ hồ, chặt nứa, đào măng. Anh đi khám thương tật 18%, chưa phải là thương binh nên không có trợ cấp.
Nghe anh kể, tôi chỉ muốn khóc. 5 vết thương, rải rác trên người anh là vết tích trận đánh ngày 23-4-1972 của đại đội tôi tại huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Đại đội chúng tôi bắn cầm cự được nửa giờ thì bị hỏa lực Mỹ hủy diệt trận địa. Chúng tôi băng bó thương binh, chôn cất tử sĩ xong, rút lui. Trên đồi chỉ còn Lường Văn Sót và lính sinh viên Nguyễn Nam Hồng (sau là Đại tá, TS Nguyễn Nam Hồng, nguyên Trưởng khoa Toán tin, Học viện Kỹ thuật Quân sự). Không còn pháo để bắn, hai người dùng súng AK bắn máy bay C-47 đang sà xuống chụp ảnh trận địa để về làm truyền đơn kêu gọi chiêu hồi. Hai đường đạn AK lẻ loi chống chọi với đạn 20mm của máy bay C-47. Năm 1974, đợt giám định thương tật của Sư đoàn 308 diễn ra đúng thời kỳ sư đoàn đang thiếu quân số. Hội đồng giám định khám rất chặt, ngặt nghèo tính toán từng vết thương một để giữ lại những tay súng “già”, theo chủ trương “một lính già bằng ba lính mới”.
Gặp lại nhau, chúng tôi tặng anh Sót tấm Kỷ niệm chương Thành cổ Quảng Trị và Quân Tiên Phong-Sư đoàn 308. Vì hai huân chương, huy chương anh đeo trên ngực áo mới bị hỏng. Tiễn anh lên xe về Phú Thọ, chúng tôi cố ghìm nước mắt mà sao khó đến thế. Bóng người đồng đội xưa nhỏ bé sau cửa kính xe khách xa dần. Sau hơn 50 năm tham gia chiến đấu, người lính ấy lại trở về với cuộc sống nơi rừng xanh!
PGS, TS PHẠM THÀNH HƯNG