“Năm 1951, đang học trường Luật, tôi bị trưng vào đào tạo sĩ quan trừ bị khóa I của cái gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam. Sau năm 1954, dù là quân nhân Quân đội Quốc gia Việt Nam nhưng tôi luôn bất mãn với hành động chống cộng sản của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tôi thường tìm cớ tránh tham gia các cuộc hành quân càn quét để lên thư viện quốc gia. Ở đây, tôi được đọc mấy cuốn sách tiếng Pháp về chiến tranh nhân dân có nhắc đến Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp. Tinh thần của tôi bắt đầu ngả về phía Bắc từ đó. Ngày 2-12-1956, những người kháng chiến bị Diệm giam giữ ở nhà tù Tân Hiệp đã tổ chức vượt ngục tìm đường về căn cứ. Lúc đó, tôi là đại úy, chỉ huy một đơn vị biệt động quân được lệnh truy kích đoàn tù chính trị vượt ngục ở hướng chiến khu Đ. Khi phát hiện dấu vết của đoàn, tôi đã ra lệnh cho đơn vị đi về hướng khác, đồng thời giả vờ đánh rơi lương thực dọc đường cố ý giúp cho đoàn có thêm thời gian trốn chạy.
Ngày 11-11-1960, tôi cùng một số người trong quân đội đã tiến hành cuộc đảo chính chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nhưng thất bại, phải lánh nạn sang Campuchia. Chúng tôi bị chính quyền Hoàng gia Campuchia theo luật quốc tế, tập trung giam giữ tại một trại tị nạn, sau đó chuyển sang trại giam Stung Meanchey ở Phnom Penh. Lúc này, trong đội ngũ lãnh đạo cuộc đảo chính đã có sự phân hóa rõ rệt. Một số muốn dựa vào những thế lực ngoại bang để lật đổ Diệm, số khác muốn sống yên phận. Còn một số anh em khác, trong đó có tôi, sau khi có điều kiện nghiên cứu và suy nghĩ về chính sách của Việt Minh, đã tìm cách bí mật bắt liên lạc với tổ chức ngay trong khi đang bị quản thúc ở trại tập trung. Sau khi Mặt trận được thành lập, chúng tôi đã tham gia và trở về khu giải phóng tại miền Nam trực tiếp chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
    |
 |
| Ông Phan Lạc Tuyên (thứ hai, từ trái sang) cùng đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam gặp Bác Hồ năm 1967. Ảnh tư liệu |
Còn nhớ, khi biết tin Mặt trận ra đời, tôi được giao thay mặt anh em tìm cách tiếp xúc bí mật với người của Mặt trận. Bằng nhiều mối quan hệ, một số lần tôi được tổ chức trốn trại giam ra họp với đại diện của Mặt trận và đại biểu Việt kiều yêu nước rồi trở lại ngay trong đêm. Trong trại giam, bằng cách này hay cách khác, tôi ra sức thuyết phục và giải thích tình hình cuộc đấu tranh để giải phóng và thống nhất Tổ quốc của nhân dân miền Nam, phổ biến nội dung cơ bản Cương lĩnh của Mặt trận. Mức độ giác ngộ của anh em rất khác nhau. Có những người sau này cùng về khu giải phóng với tôi, nhưng cũng có một số người chỉ đồng tình có mức độ hoặc không. Nhưng dù sao sau này thái độ của họ cũng có chuyển biến. Đặc biệt là tôi đã giác ngộ được một anh lính Khmer quê gốc Bạc Liêu, là một trong những người có nhiệm vụ canh giữ chúng tôi. Anh nói tiếng Việt rất sõi, bố mẹ anh còn ở Bạc Liêu và nhà rất nghèo. Sau này anh trở thành người liên lạc giữa tôi và một “hộp thư” của cách mạng vốn là Việt kiều yêu nước sinh sống lâu năm ở Campuchia. Từ khi có đường dây liên lạc đặc biệt này, công tác của tôi đã nhẹ đi nhiều.
Lúc ấy ở Phnom Penh có Báo Trung lập, một tờ báo của Việt kiều yêu nước, cũng là tiếng nói của cách mạng, của Mặt trận ở hải ngoại. Anh Trần Văn Kiêm phụ trách tờ báo này. Tôi đã bắt liên lạc với anh và tham gia viết nhiều bài đăng trên báo với bút danh khác nhau. Trong đó có một truyện dài có tựa đề “Những khuôn mặt cuộc đời” đăng nhiều kỳ. Nội dung của truyện nói về cuộc chiến đấu của giới học sinh, sinh viên, trí thức Sài Gòn chống chế độ độc tài và ngoại bang lúc đó. Ngoài ra, tôi còn dạy học tại Trường Lycée Anakout. Trường này của hoàng thân Virya (cậu của ông hoàng Sihanouk). Học sinh hầu hết là con em những nhà quý tộc, công chức lớn và nhà tư bản. Một số ít là Việt kiều, lai Việt hoặc lai Hoa. Bằng nhiều cách, tôi đã vận động và giáo dục, sau này có nhiều em học sinh đã về khu giải phóng miền Nam tham gia kháng chiến. Ngoài ra, tôi còn viết báo Tin điện Campuchia (Dépêche de Cambodge) xuất bản bằng tiếng Pháp để khéo léo tuyên truyền về Mặt trận trên báo bạn.
Giữa năm 1963, tôi nhận được thư của Trung ương Mặt trận mời về khu giải phóng. Sau này khi về nước, tôi mới biết người viết lá thư ấy là anh Mười Cúc (tức Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ). Điều đó khiến tôi cảm thấy sung sướng vì biết rằng Đảng tin tưởng chúng tôi. Theo kế hoạch, tôi và anh Nguyễn Công Minh, Nguyễn Trọng Thúc là hai người trong nhóm đảo chính ngày 11-11-1960 đi trước, còn lại đi sau.
Từ thành phố Phnom Penh về tới biên giới, chúng tôi phải đi bí mật vì cảnh sát và quân cảnh chính quyền Campuchia lúc đó quản thúc chặt, không cho ra khỏi thành phố. Về gần tới biên giới, chúng tôi ở tạm trong một xóm nhỏ và chờ đến đêm thì có người dẫn đi. Tôi nhớ, ở đó có một đồn lính Khmer. Khoảng 19 giờ hôm ấy, chúng tôi lên đường “vượt biên” để trở về Tổ quốc. Người dẫn đường phổ biến một số điều như: Khi qua biên giới phải chạy gấp, sang tới “đất mình” thì đi thong thả, tuyệt đối không được nói chuyện hoặc gây tiếng động, khi thấy đèn pha của đồn lính Khmer chiếu về phía mình thì lập tức nằm xuống.
Đêm ấy, chúng tôi qua một bưng cỏ cao và chạy theo người dẫn đường hướng về phía biên giới. Chạy như vậy khá lâu, người dẫn đường bỗng dừng lại ở một khu đất cao, cỏ rậm và nói: “Đây là đất của ta rồi”. Tôi vô cùng cảm động và như có một sức mạnh vô hình nào thôi thúc, tôi vội quỳ xuống áp mặt xuống đất. Những giọt nước mắt không hiểu vì sao bỗng trào ra ướt cả mặt. Cũng may là đêm tối nên không ai biết. Tôi từ từ đứng lên nhìn bầu trời đầy sao, lòng như muốn hét lên: “Ôi, mẹ Tổ quốc yêu mến, con đã trở về đây!”.
Lại mấy ngày vượt qua nhiều vùng xen kẽ “xôi đậu” giữa địch và ta, chúng tôi qua bao nhiêu bưng ngập nước và cả những ấp chiến lược. Có lần lọt vào một cuộc càn quét của địch, một số đồng chí hy sinh. May mắn là chúng tôi cũng rút khỏi vòng vây của chúng. Rồi một đêm, chúng tôi đã tới một vùng gần bờ sông Vàm Cỏ Đông tại Chiến khu Dương Minh Châu. Ở đây tương đối xa những đồn, bốt của địch. Sau mấy ngày liền gian khổ, đêm đó chúng tôi dừng lại và được nghỉ ngơi. Cũng tại đây, chúng tôi được gặp ngay một số đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam và các vị trong Trung ương Mặt trận như: Mười Cúc, Hai Hậu (Trần Nam Trung), Tư Ánh (Trần Bạch Đằng), Bảy Dự (Nguyễn Võ Danh), luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nữ bác sĩ Thúy Ba... Tôi nhớ mãi anh Mười Cúc với cử chỉ ân cần và đôn hậu, nói chuyện thân mật và thăm hỏi về cuộc sống của chúng tôi. Nữ bác sĩ Thúy Ba phát cho chúng tôi những viên thuốc chống sốt rét đầu tiên.
Cuộc chiến đấu trực tiếp đối với chúng tôi đã bắt đầu, ngay trên mảnh đất miền Nam yêu dấu, giữa rừng già miền Đông Nam Bộ khi mùa mưa rừng cũng bắt đầu cuốn phăng những bông hoa bằng lăng tím rụng đầy trên dòng suối ven rừng. Xa xa vẳng lại tiếng pháo của đồn địch bắn vu vơ và tiếng bom ầm ì từ phía nào đó vọng lại. Giữa vòng tay của các đồng chí, trong lòng chúng tôi rực lên niềm tin về ngày mai tất thắng...”.
ÁNH NGUYỆT (theo lời kể của TS Phan Lạc Tuyên)