Sinh thời, tại nhiều cuộc gặp mặt, hội thảo, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nguyên Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam kể: “Ngay ở Sài Gòn, thủ đô của chế độ Mỹ-Diệm, chúng đã hạ sát anh Phạm Văn Ngà, bắt và tra tấn đến chết giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, dùng nhục hình cực kỳ tàn bạo giết chết chị Nguyễn Thị Diệu, giáo viên Trường Đức Trí trong lúc chị mang thai. Các đồng chí: Nguyễn Trọng Tuyển (Ba Thi), Bí thư Tỉnh ủy Gia Định; Trần Quốc Thảo, Bí thư Khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn... đã anh dũng hy sinh. Nhiều đồng chí, đồng bào yêu nước bị chúng bắt bớ, tra tấn, đày ải đến chết ở Côn Đảo. Các đợt tố cộng, diệt cộng nối tiếp nhau với các hình thức trấn áp, “sám hối”, ly khai Đảng, ly khai chồng tập kết, ép vợ cán bộ tập kết lấy bọn tay sai hoặc binh lính ngụy ác ôn. Những chiến dịch tuyên truyền, tác động tâm lý chiến bằng đủ mọi luận điệu và thủ đoạn nham hiểm để ly gián từng xóm, từng ấp, từng gia đình... Tàn khốc hơn cả là khi Mỹ-Diệm ra Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” và lê máy chém đi khắp nơi giết những người yêu nước. Ngô Đình Diệm tuyên bố công khai: Không bị Hiệp định Geneva ràng buộc, tận diệt cộng sản không run tay, giết oan 100 người còn hơn bỏ sót một tên cộng sản. Tuy nhiên, các thủ đoạn ấy dù tàn bạo điên cuồng đến đâu vẫn không thể khuất phục được con người miền Nam”.

leftcenterrightdel

Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ duyệt một đơn vị danh dự

của LLVT giải phóng miền Nam. 

Bị kẻ thù đặt vào tình thế phải vùng lên, nhân dân ta quyết đấu tranh đến cùng nhằm xóa nỗi đau nô lệ và cảnh nước nhà bị chia cắt để mang hòa bình, ấm no, hạnh phúc về cho mọi người. Công nhân miền Nam không ngừng đấu tranh đòi giải quyết nạn thất nghiệp, đòi tăng lương, cải thiện chế độ làm việc, chống phạt vạ, đòi xây dựng kinh tế độc lập và các quyền tự do, dân chủ, đòi hòa bình, thống nhất nước nhà. Theo nhiều tài liệu cho thấy, tính đến cuối năm 1959 đã có gần 1.500 cuộc đấu tranh của công nhân, trong đó có 27 cuộc lớn mà tiêu biểu là cuộc biểu tình tuần hành của công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn trong Ngày Quốc tế Lao động (1-5) năm 1956 và 1958, thu hút hàng trăm nghìn người tham gia. Ở nông thôn, nông dân bền bỉ chống lại thủ đoạn cướp ruộng đất trong cái gọi là “cải cách điền địa”, chống tăng tô, đòi giảm thuế, chống tố cộng, chống khủng bố, chống bắt lính, bắt xâu xây dựng khu trù mật, khu dinh điền. Ở các vùng rừng núi, đồng bào dân tộc thiểu số đã có nhiều hình thức đấu tranh phong phú chống thuế, chống càn quét, cướp bóc. Giới trí thức, thanh niên, học sinh, sinh viên, phụ nữ các đô thị đấu tranh chống văn hóa suy đồi của Mỹ, đòi bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc. Đồng bào có đạo, những nhà tư sản dân tộc cũng đoàn kết với các tầng lớp nhân dân thành thị đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống chế độ gia đình trị và bọn tay sai Mỹ-Diệm lũng đoạn kinh tế... Trong Hồi ký “Không còn đường nào khác”, Thiếu tướng Nguyễn Thị Định (1920-1992), nguyên Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam có kể về Hội nghị lần thứ hai Xứ ủy Nam Bộ diễn ra cuối năm 1956. Hội nghị do đồng chí Lê Duẩn chủ trì đã bàn thảo nhiều vấn đề và quyết nghị: Con đường tiến lên của cách mạng miền Nam phải dùng bạo lực của quần chúng đi lên tổng khởi nghĩa. Do nhu cầu cách mạng, trong chừng mực nào đó phải có LLVT để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó để đánh đổ Mỹ-Diệm.

“Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ-Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. (Hồ Chí Minh)

Nghị quyết của Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ lần thứ hai đã giải tỏa một phần nỗi day dứt, băn khoăn của cán bộ, chiến sĩ. Từ đây, các đơn vị nhỏ ở miền Đông, miền Tây được thành lập gồm bộ binh, đặc công, trinh sát hoặc mang danh giáo phái như Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh, Đại đội 12 Bình Xuyên, bộ đội “Trâm bầu” hay những tổ vũ trang tự vệ của Tây Nguyên, những tiểu đội tự vệ của Liên khu 5... Một số trận đánh phối hợp như tấn công trại Be, Biên Hòa, cơ sở khai thác gỗ của Trần Lệ Xuân đã có tác dụng nhất định trong việc củng cố căn cứ miền Đông Nam Bộ. “Tuy nhiên, trong nghị quyết của Xứ ủy, mức độ “bạo lực cách mạng” được nêu ra chưa thật rõ. Hơn nữa, do chưa có nghị quyết của Trung ương nên việc tổ chức và hoạt động vũ trang còn hạn chế, chủ yếu để tự vệ và vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở. Trong lúc đó, về trang bị cơ sở vật chất, hậu cần cho LLVT cũng như việc xây dựng các vùng căn cứ vững chắc, các lõm phá kềm có hoạt động vũ trang phối hợp để hạ uy thế bọn ác ôn còn nhiều khó khăn. Quân địch thì trang bị đến tận răng, luôn mở quy mô đánh phá ngày càng ác liệt vùng căn cứ. Chúng tiếp tục khống chế từng liên gia bằng bọn ác ôn tại chỗ, phát hiện và phá vỡ nhiều cơ sở nội tuyến của ta trong lòng địch, kết hợp đẩy mạnh chiến dịch tố cộng, diệt cộng gọi là “tát nước bắt cá” để làm phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng bị núng thế”, theo hồi ký của Thiếu tướng Nguyễn Thị Định. 

leftcenterrightdel
Các đại biểu dự Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất, tháng 2-1962. Ảnh tư liệu 

Để tạo khí thế cho phong trào chính trị của quần chúng và giải quyết phần nào những khó khăn về hậu cần, trang bị cho LLVT đang được xây dựng từng nhóm nhỏ, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ lần thứ ba đã quyết định mở một số cuộc đấu tranh vũ trang tích cực. Trong đó, trận tiến công vũ trang có nhiều ý nghĩa là trận đánh Chi khu Dầu Tiếng (tháng 8-1958). “Thắng lợi bất ngờ của ta khiến bọn cầm quyền la hoảng là quân Bắc Việt đã về miền Nam. Nhưng sự thật thì chưa có chiến sĩ miền Bắc mà chỉ có quân du kích miền Nam đánh đòn cảnh cáo”, sinh thời, đồng chí Nguyễn Văn Chí, nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông Nam Bộ từng kể.

Đầu năm 1959, những nội dung chủ yếu của đường lối cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn phác thảo đã được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (khóa III) hoàn chỉnh và nâng cao. Tháng 9-1959, đoàn đại biểu Xứ ủy Nam Bộ dự hội nghị về đến Nam Bộ. Ngay sau đó, Xứ ủy họp Hội nghị lần thứ tư triển khai Nghị quyết Trung ương và đề ra kế hoạch tổ chức thực hiện. Đồng chí Nguyễn Văn Chí nhớ lại: “Trung ương cho khởi nghĩa giành chính quyền”-tin đó đem đến khắp miền Nam một niềm hân hoan chưa từng có. Lúc này, cần đánh một trận để hỗ trợ cho toàn miền Nam đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền. Chiến thắng Tua Hai (Tây Ninh) đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đồng khởi ở Nam Bộ đầu năm 1960. Giữa năm 1960, Xứ ủy họp Hội nghị lần thứ năm, bấy giờ đã có đơn vị tập trung quy mô tiểu đoàn và vùng căn cứ, vùng giải phóng rộng. Đến cuối năm 1960, nhân dân và lực lượng cách mạng đã giải phóng một nửa số xã toàn miền Nam, một cao trào cách mạng thật sự xuất hiện”.

Sự phát triển của cách mạng yêu cầu phải có một hình thức tổ chức công khai tập hợp lực lượng yêu nước toàn miền Nam dưới một ngọn cờ duy nhất và một chương trình hành động cụ thể. Ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành thuộc vùng giải phóng Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các đảng phái đã họp thống nhất thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ủy ban Trung ương Mặt trận được bầu, gồm nhiều nhân vật tiêu biểu. Mặt trận quyết định chọn cờ nửa xanh nửa đỏ giữa có sao vàng năm cánh, ca khúc “Giải phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng, làm cờ và bài ca chính thức của Mặt trận. Là ngọn cờ tập hợp lực lượng nhân dân miền Nam, với sự chi viện của miền Bắc, Mặt trận thực hiện sứ mệnh hoàn thành phần còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ hiện đại. Mặt trận đề ra tuyên ngôn và chương trình hành động 10 điểm vì mục tiêu: “Phải hòa bình! Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hòa bình thống nhất Tổ quốc”.

Sau ngày thành lập, các tổ chức chính trị, thành viên của Mặt trận đã phát triển nhanh chóng. Đặc biệt là sự ra đời của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Dưới ngọn cờ của Mặt trận, theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam do Bác Hồ và Trung ương Đảng vạch ra, với nhiệt tình yêu nước cao độ, nhân dân ta đã vượt muôn trùng thử thách để về đến đích.

Biết bao anh hùng, liệt sĩ và người dân bình thường đã ngã xuống trên con đường tiến đến độc lập, tự do, thống nhất nước nhà. Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được chiến sĩ và nhân dân miền Nam trân trọng như biểu tượng của chính ngọn cờ Tổ quốc Việt Nam duy nhất, dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. (Nguyễn Hữu Thọ)

TS NGUYỄN QUANG TẠO