Kiểu tư duy “bắc cầu” nguy hiểm

Dịp này, cả nước ta sôi nổi các hoạt động kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam-Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18-11-1930 / 18-11-2025) và Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh chuỗi hoạt động truyền cảm hứng, lan tỏa năng lượng tích cực trong đời sống xã hội, trên không gian mạng cũng xuất hiện không ít thông tin trái chiều, gây xôn xao dư luận. Một trong những chủ đề được dư luận quan tâm là những thông tin xoay quanh công-tội của một số nhân vật lịch sử như: Nguyễn Ánh, Tả quân Lê Văn Duyệt. Đứng ở góc nhìn truyền thông thì nội dung này không có gì mới.

Nó đã được xới lên từ nhiều năm nay, cả trong giới học thuật và dư luận xã hội. 5 năm, 10 năm trước, cũng vào những dịp tương tự như hiện nay, câu chuyện về công-tội của hai nhân vật lịch sử này từng làm “nóng” mạng xã hội. Một câu hỏi đặt ra là, tại sao một câu chuyện đã cũ, thông tin, tư liệu không có gì mới lại được xới lên vào dịp cả dân tộc đang cần “hâm nóng” tinh thần đại đoàn kết? Đó chỉ là một cuộc tranh luận mang tính chuyên môn hay đằng sau đó còn có ý đồ gì khác? Để lý giải câu hỏi đặt ra, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề một cách khoa học, tỉnh táo và khách quan.

Theo dõi nhiều bài viết, bình luận... trên các nền tảng mạng xã hội, chúng ta thấy rõ, một số người muốn hướng cái gọi là “tranh luận”, “đề xuất”, “kiến nghị”... theo lối tư duy “bắc cầu” nhằm truyền tải ý đồ chính trị. Những người này kêu gọi “xét lại lịch sử” để đánh giá đúng công lao của Nguyễn Ánh trong lịch sử, đặc biệt là việc mở mang bờ cõi, lập quốc hiệu, xây dựng nền hành chính... ở Nam Bộ. Thậm chí, một số người đã cố ý gài cắm yếu tố đối trọng giữa Gia Long-Nguyễn Ánh với Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ, một mặt ra sức tô hồng Gia Long-Nguyễn Ánh, mặt khác cố tình làm lu mờ vai trò lịch sử của Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ. Từ việc tô hồng công lao của Nguyễn Ánh, họ xếp Tả quân Lê Văn Duyệt vào hàng “danh tướng” trong sử Việt. Họ đòi các cấp, các ngành phải có những hình thức tôn vinh xứng đáng đối với Nguyễn Ánh và Tả quân Lê Văn Duyệt bằng việc xây dựng công trình tưởng niệm, đặt tên đường, tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày sinh, ngày mất...

Nếu chỉ dừng lại ở đó, thiết nghĩ nguyên nhân của những câu chuyện này có thể được lý giải bởi yếu tố nhận thức, cảm tính ở một số cá nhân hoặc tình cảm của gia đình, dòng họ. Điều đáng bàn ở đây là từ việc muốn “xét lại” một số nhân vật thời triều Nguyễn, họ đã “bắc cầu” tư duy, liên hệ đến những nhân vật chủ chốt trong bộ máy của ngụy quyền Sài Gòn trước ngày 30-4-1975, nhất là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu... Họ cho rằng, đây là những nhân vật có “vai trò lịch sử quan trọng” đối với Sài Gòn và vùng đất Nam Bộ. Họ liên hệ, so sánh Đàng Trong dưới thời cai quản của Gia Long-Nguyễn Ánh với cái gọi là “chính quyền Việt Nam Cộng hòa” dưới thời của những “Tổng thống” như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu...

Như vậy là đã rõ. Quan điểm này thực chất là tạo cớ để kích động, gây chia rẽ vùng miền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nó hoàn toàn không mang tinh thần xây dựng, không vì mục tiêu thúc đẩy đoàn kết như một số người từng lớn tiếng rêu rao. Những quan điểm sai trái, xấu độc này được một số đối tượng chọn “điểm rơi” vào giai đoạn này chính là nhắm vào nền tảng tư tưởng của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, gây hoang mang dư luận, nhiễu loạn thông tin, làm cho thật-giả khó định, chính-tà bất phân, vàng-thau lẫn lộn...

Gia Long-Nguyễn Ánh và cận thần, thuộc hạ (trong đó có Tả quân Lê Văn Duyệt mà dư luận quan tâm) có dấu ấn nhất định đối với vùng đất Nam Bộ, nhưng tất cả việc làm đó đều vì mục đích củng cố lợi ích cho vương triều. Tương tự, những “chiến công” của Tả quân Lê Văn Duyệt cũng chỉ nhằm góp phần củng cố vị thế cho vương triều Gia Long. Việc “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về giày mả tổ” của Nguyễn Ánh khiến nhân dân lầm than. Nguyễn Ánh cũng là người đưa thư cầu viện quân Pháp, coi như mở đường cho quân Pháp vào xâm lược Việt Nam sau này. Đó là những tội không thể dung thứ.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc ta phải đổ biết bao xương máu mới đánh đuổi được thực dân, đế quốc. Như vậy, việc xét công-tội của những nhân vật này phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm chuẩn để đánh giá, chứ không thể tư duy cảm tính, suy luận kiểu “cắt khúc”, “hớt váng” nhằm tô hồng, làm thay đổi bản chất. Những ý kiến tuyệt đối hóa, thần tượng hóa Gia Long-Nguyễn Ánh, hạ bệ Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ, từ đó liên hệ, liên kết với vai trò của Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu... thực chất là một lối biểu hiện của “thuyết âm mưu” nhằm “lật sử”, “tẩy sử”. Họ lấy cớ này để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; coi ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975 là một “chính thể”, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng...

Nâng tầm “bộ lọc” của tư duy

Hiện nay, không gian mạng bị chi phối, ảnh hưởng ngày càng sâu sắc và toàn diện bởi công nghệ thông minh, trí tuệ nhân tạo (AI). Hành vi lợi dụng danh nghĩa “tự do học thuật”, “tư duy phản biện”, lợi dụng AI và các nền tảng số để tung ra những luận điệu chia rẽ vùng miền, kích động hận thù Nam-Bắc, cổ xúy tâm lý địa phương chủ nghĩa... đang diễn biến rất phức tạp. Những thông tin, hình ảnh, video clip... được thực hiện bằng công nghệ AI xuất hiện nhan nhản trên không gian mạng, khiến một bộ phận công chúng nhiều lúc như bị thôi miên vào mê hồn trận. Việc xuyên tạc lịch sử để lèo lái dư luận xã hội theo ý đồ chính trị của các phần tử phản động và thế lực thù địch diễn ra hết sức tinh vi, nguy hiểm.

Đáng bàn là, trước những thông tin sai trái đó, một số người lại hùa theo, a dua, tát nước theo mưa. Thực trạng này đặt ra những thách thức không hề nhỏ đối với công tác tư tưởng-văn hóa, đặc biệt là trên không gian mạng. Nhìn nhận, đánh giá về lịch sử nếu thiếu nền tảng học thuật nghiêm túc, thiếu tinh thần phụng sự đất nước, thiếu bản lĩnh chính trị... thì rất dễ trở thành tác nhân gây mất đoàn kết, ảnh hưởng đến ổn định chính trị. Và đó chính là thứ mà các thế lực thù địch sẽ bám vào để thực hiện những chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, gây chia rẽ dân tộc từ bên trong bằng chính những khác biệt về nhận thức và khuynh hướng tư tưởng.

Chúng ta muốn đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng thì phải “nói có sách, mách có chứng”. Cái “chứng” ấy chính là những luận chứng, luận cứ, luận điểm đã được chứng minh từ chiều sâu lịch sử, từ chiều dài của thời gian và từ chính thực tiễn cuộc sống.

Trước hết, cần phải thống nhất về tư duy, tư tưởng và phương pháp luận. Tất cả phát kiến, đề xuất, kiến nghị, giải pháp... trên bất kỳ lĩnh vực nào, ở bất kỳ phạm vi, quy mô nào... đều phải hướng đến mục tiêu cao nhất, đó là phục vụ lợi ích của quốc gia, dân tộc. Từ cổ chí kim, triều đại nào, nhân vật nào có công với đất nước đều được lịch sử ghi nhận, được hậu thế tôn vinh, bia đá, bảng vàng ghi công. Những ai bất chấp thủ đoạn để củng cố quyền lực, vì lợi ích cục bộ (ngày nay chúng ta thường gọi là lợi ích nhóm) thì công-tội phải phân minh, rạch ròi.

Trước những luận điệu sai trái kiểu ngụy sử, ngụy hàn lâm, chúng ta cần khẳng định dứt khoát: Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sự trộn lẫn các khuynh hướng tư tưởng vô nguyên tắc, càng không phải là thứ tự do ngôn luận, tự do dân chủ quá trớn, núp bóng hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, kiến nghị... để đi ngược lại chủ trương của Đảng, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Bản chất và cũng là yêu cầu xuyên suốt của đại đoàn kết toàn dân tộc chính là sự thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc chính là hiện thực hóa khát vọng Việt Nam, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì Tổ quốc phồn vinh, thịnh vượng; vì hạnh phúc của nhân dân...

Trong mê hồn trận thông tin trên không gian mạng, mỗi cán bộ, đảng viên và công dân yêu nước cần trang bị cho mình một “bộ lọc” thông minh để phân biệt thật-giả, tốt-xấu, trắng-đen... một cách phân minh, rõ ràng. Cái trục và cũng là kết cấu chính của “bộ lọc” ấy chính là lợi ích quốc gia, dân tộc, được thể hiện trong quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng. Trên cơ sở phương pháp luận chung ấy, mỗi cá nhân, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải cụ thể hóa thành quyết tâm, cam kết, kế hoạch, chương trình hành động. Đó chính là cách để củng cố đoàn kết, thống nhất từ trong Đảng, làm hạt nhân để gắn kết khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy lùi mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.