Xuất xứ của R

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, R là từ khóa thường được nhắc tới với cách hiểu như rừng và căn cứ chỉ huy của cách mạng miền Nam. Nhưng xuất xứ thực sự của R lại không phải là rừng. Năm 1995, trong một cuộc gặp mặt cán bộ lão thành cách mạng tại TP Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Một, nguyên Bí thư Chi bộ, Chánh văn phòng Xứ ủy Nam Bộ giai đoạn 1956-1957 kể: “Tôi nhớ khoảng giữa năm 1955, đồng chí Nguyễn Hữu Thế (tên thường gọi là ông Tư râu kẽm) làm Chánh văn phòng Xứ ủy Nam Bộ. Xuất thân là nhà giáo Tây học, đồng chí đã đặt các mật danh theo tiếng Pháp như: R tức Région (xứ), I tức Interprovince (liên tỉnh, khu), P tức Province (tỉnh), D tức Délégation (quận) và V tức Village (làng, xã). Trước ngày đồng khởi, công văn của cấp trên gửi xuống hay cấp dưới gửi lên, dù bằng hình thức nào cũng nhất định phải giữ ký hiệu để khu biệt. Khi chiến tranh phát triển cao, có lúc các ký hiệu thay đổi: Hồng Thái (hoặc Bác Hương) là Bộ Chính trị, Ba Đình là Trung ương Cục, Bình Giã là Đặc khu Sài Gòn-Gia Định. Ký hiệu R tồn tại lâu nhất, còn I chuyển thành T và P, D, V không được nhắc tới nữa”.

leftcenterrightdel

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Trần Nam Trung (bên trái) tại chiến trường miền Nam năm 1972. Ảnh tư liệu 

Căn cứ R đặt trong rừng Đông Nam Bộ, trung tâm là ở Tây Ninh. Theo lời kể của nhiều cán bộ lão thành và các cựu chiến binh, bấy giờ, Đông Nam Bộ gồm những dải rừng già bạt ngàn từ đầu nguồn sông Vàm Cỏ Đông, qua đầu nguồn sông Sài Gòn và đến đầu nguồn Mã Đà, giáp Nam Tây Nguyên, ra tận Xuyên Mộc trên bờ Biển Đông. Từ cuối năm 1954, khi Quân đội ta tập kết để ra miền Bắc, rừng Đông Nam Bộ trở nên trầm lặng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, vẻ trầm lặng ấy không còn nữa. Bấy giờ, người Pháp đang thất thế trước chính quyền Ngô Đình Diệm được Mỹ yểm trợ. Theo thời cuộc, một số người có điều kiện kinh tế đã lập đồn điền cao su nhỏ xen kẽ với các công ty cao su nổi tiếng của Pháp. Số khác, đông hơn, là đồng bào di cư từ miền Bắc vào tập trung ở các dinh điền do lực lượng bán quân sự của chính quyền bảo vệ. Đây là âm mưu chiếm lĩnh khu rừng chiến lược này, hình thành vành đai rộng lớn phòng ngự Sài Gòn của Mỹ-Diệm. Ngoài ra có các nhóm người kháng chiến bị truy lùng, sống lưu động trong rừng, từng bước xây dựng những lõm căn cứ để làm nơi hội họp. Cuộc xung đột vũ trang giữa Ngô Đình Diệm và các giáo phái, lực lượng thân Pháp trong quân đội ngụy Sài Gòn bùng lên dữ dội rồi tắt nhưng dư âm vẫn kéo dài. Một số bộ phận trong các lực lượng ấy rút vào rừng U Minh, Đồng Tháp Mười và rừng Sác cạnh Sài Gòn. Những người kiên quyết chống Mỹ-Diệm được các nhóm kháng chiến giúp đỡ địa bàn cư trú, tiếp tế lương thực... Do đó, đến năm 1957, rừng Đông Nam Bộ trở lại “phong độ” xưa. Vùng Lò Gò đầu nguồn sông Vàm Cỏ Đông có căn cứ C.60 (đồng chí Năm Ninh, Năm Beo phụ trách), vùng chân núi Bà Đen và ven đầu nguồn sông Sài Gòn có căn cứ C.70 (đồng chí Tư Nguyện phụ trách), vùng núi Cậu và suối Ông Hùng có căn cứ C.80 (đồng chí Lê Thanh phụ trách). Vùng Long Nguyên, Bời Lời hay rừng Cò Mi, sông Mã Đà đều có các căn cứ của ta. Các căn cứ nối liền với nhau bằng đường “cò”, tức đường phóng giữa rừng không theo lối mòn để tránh biệt kích thám báo phát hiện mà đi theo dấu hiệu cây con bị bẻ cụp nhánh.

Đồng chí Dương Quang Đông (1902-2017), nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, nguyên Thường trực Hội đồng cung cấp tiền phương của Trung ương Cục miền Nam từng kể với chúng tôi: “Việc cơ động trong rừng hết sức khó khăn. Bộ đội phải len lỏi giữa thân cây và dây leo chằng chịt, tránh mối càng, kiến bù nhọt, dây kim cang nhiều gai, tránh thú dữ, tránh các xóm dinh điền. Nhà là các tấm ni lông, ngủ nghỉ hầu như trên võng. Đêm mưa dông phải đề phòng cây đổ. Mùa nước, các đầu nguồn rộng bát ngát, nước chảy xiết, vượt sông suối hết sức nguy hiểm. Đến năm 1959, rừng Đông Nam Bộ thành căn cứ chính của cách mạng Nam Bộ. Tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời tại đây. Tuy nhiên, rừng chưa qua hết gian nan. Chính quyền ngụy ủi phá các khu rừng rậm, xẻ nhiều con đường lớn mà chúng tôi quen gọi là “đường Trần Lệ Xuân”. Chúng cho xe bọc thép bắn xối xả bảo vệ xe ủi, xe ben càn phá căn cứ. Cho đến năm 1961, khi Quân giải phóng bẻ gãy kế hoạch phá rừng của Diệm, R được bảo vệ và trở thành “đầu não” kháng chiến”.

Một “thế giới” sinh động

Trong hồi ức của đồng chí Dương Quang Đông, cuộc sống ở R là một thế giới rất sinh động, dù gian khổ và nguy hiểm nhưng cũng nhiều điều thú vị. Giữa rừng thiêng, những chiến sĩ cộng sản tham gia kháng chiến vui vẻ chấp nhận và luôn cố gắng tô điểm cho cuộc sống ấy ngày một đẹp hơn. Các cơ quan của R đóng trên những đồi đá ong. Nhờ bám sát dân, thậm chí lẫn lộn với các xóm làng mà lương thực bớt phần thiếu thốn hơn so với thời kháng chiến chống thực dân Pháp, song không phải lúc nào cũng thuận lợi. Đồng chí Dương Quang Đông kể lại: “Ví như hồi căn cứ ở Mã Đà, đường tải gạo khá xa. Chúng tôi phải cử người xuống tận Lạc An, Tân Long gần Tân Uyên, qua bao nhiêu đồi cao. Những khi địch phong tỏa gắt gao, căn cứ cạn gạo, phải vào rừng đào củ chụp ăn qua ngày. Củ chụp là loại khoai hoang dã, củ to và ăn rất bùi, bám khá sâu trong đất, đào nó bằng một dụng cụ giống cái nơm nên mới có tên gọi là chụp.

Ở sát biên giới nên chúng tôi cũng có trao đổi, mua bán với người dân Campuchia một số hàng hóa. Rừng cung cấp nhiều sản vật nhưng nhiều cơ quan ở R cũng chủ động tự cung, tự cấp bằng việc chọn khoảng rừng trống nhỏ tăng gia sản xuất. Mùa mưa đầu nguồn và trảng nhiều cá tôm thì tổ chức đánh bắt. Đại đội mà muốn liên hoan thì hạ voi. Sau này, luật pháp cấm săn bắn voi chứ thuở ấy, voi là nguồn thịt quan trọng. Một hôm, anh em hạ được một con voi, cách căn cứ vài giờ đi đường. Anh Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bửu Kiếm, nhà báo Tân Đức (Tám Râu)... ra tận nơi và nướng thịt ăn tại chỗ cùng anh em, ai cũng hể hả”.

leftcenterrightdel
Căn nhà ở và làm việc của các đồng chí lãnh đạo Đảng trong kháng chiến tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Ảnh: GIANG PHƯƠNG 

Thượng tướng Trần Nam Trung (1912-2009), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Chính phủ, có nhiều năm hoạt động ở R trên cương vị  Phó chủ tịch, phụ trách công tác quân sự của Mặt trận. Tại tư gia ở đường Tú Xương, TP Hồ Chí Minh, ông từng nhiều lần kể với chúng tôi những kỷ niệm đáng nhớ. Ông bảo không nói đến những chuyện lớn lao như đánh giặc hay trao đổi chủ trương, kế hoạch chiến đấu mà chỉ kể về điều rất bình thường, rất “người”. Trước khi bắt đầu câu chuyện, bao giờ ông cũng nhắc, những ai từng ở R sẽ không thể quên những năm tháng tuy nhiều gian khổ, hy sinh mà luôn ngời sáng tinh thần lạc quan cách mạng với tình đồng chí, đồng đội cùng chia ngọt sẻ bùi. Giữa rừng thiêng, ông và đồng đội đã chứng kiến biết bao đám cưới và đón sự chào đời của bao công dân R. Thượng tướng Trần Nam Trung kể: “Các chiến sĩ ta đã thành lập “Câu lạc bộ UTQ” (uống trà quạu). Hằng ngày, hội viên UTQ thường tề tựu bên ngọn đèn dầu hoặc bếp lửa bàn đủ thứ chuyện. Thỉnh thoảng, một số anh em đón người nhà lên thăm. Họ gặp nhau ở rìa căn cứ trong một “gian nhà hạnh phúc”. Thường thì qua giao liên, gia đình tiếp tế, có thịt kho mặn, cá hộp, cà phê, sữa, đường, thuốc lá... Tất nhiên, có mấy xị rượu đế. Nhưng đó lại không của một người. Anh em góp cả vào cùng chia sẻ. Và những ván tú lơ khơ ầm ĩ, có cả chuyện “ăn gian” bên cạnh ván cờ tướng lẽ ra êm ả mà đôi khi sóng gió.

Không thể không kể các đợt bom dữ dội, hầm rung rinh, các cuộc hành quân và nhảy dù với xe bọc thép của địch. Cơ quan nào cũng có kế hoạch chống càn. Thực tế, nhiều cơ quan đã tham gia chống biệt kích, quân dù. Chúng tôi đã đánh bại cuộc hành quân Junction City (năm 1967), bắn cháy xe tăng, diệt nhiều lính Mỹ. Một số nhà báo nước ngoài đến R nói: Đây là một tổ chức quy mô của chính phủ!

Đúng, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một chính phủ đàng hoàng với bộ máy tổ chức đầy đủ dù ở trong rừng. Từ đi bộ, theo thời gian và sự phát triển của cách mạng, những người kháng chiến sống ở rừng dần có xe đạp, rồi mô tô, sau cùng là ô tô. Trên sông Vàm Cỏ Đông, phương tiện đi lại là xuồng, sau này phát triển thành đoàn xuồng máy. Chúng tôi gọi vui là đoàn “Lướt sóng”. Cơ ngơi từ năm 1961 đến 1970 dần tươm tất: Nhà lợp lá trung quân, đêm cơ quan có máy phát điện. Chúng tôi có một hội trường đồ sộ (hơn 1.000 chỗ ngồi). Các buổi biểu diễn văn nghệ, tiếp khách quốc tế, thi thể dục, thể thao vẫn diễn ra dù đang chiến tranh. Xin kể một chuyện vui: Một hôm, không biết anh Hiếu tìm đâu ra một máy chiếu phim. Bộ đội ta đánh thắng một trận nào đó thu được một cuộn phim 8mm và tặng Ủy ban Trung ương Mặt trận. Đó là một đoạn phim câm của Tây Ban Nha, nhảy claquettes. Vậy mà vẫn chiếu vài đêm. Tôi nhớ một buổi chiếu có đủ các anh Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Linh, tướng Trần Văn Quang và tôi, tất cả đều ngồi xem vui vẻ”.

VĂN LÊ