Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Thái Phước Hiệp kể: Ngày 16-5-1955, tôi cùng đồng đội lên tàu ra miền Bắc. Lúc này, tôi là Tiểu đội trưởng. Sau 5 năm học tập, công tác, năm 1960, tôi về công tác tại Nông trường quốc doanh Lệ Ninh (Quảng Bình). Cuối năm 1962, tôi cưới vợ. Chúng tôi làm lễ cưới tại nông trường. Cuộc sống riêng của tôi từ đây bước sang trang mới, nhưng cũng là một thử thách buộc tôi phải chọn lựa: Đó là tiếp tục làm việc tại nông trường hay vẫn kiên trì phấn đấu để được vào miền Nam chiến đấu? Trước đây, khi chưa lập gia đình, chuyện sống chết tôi không sợ, nhưng bây giờ cưới vợ, có con thì không phải đơn giản. Vào miền Nam chiến đấu, không chắc là có thể đi hết cuộc chiến, thậm chí có người đã hy sinh trên đường đi. Còn nếu ở lại thì cũng không ai có thể trách được vì tôi đã xin ở lại Quân đội để sẵn sàng vào miền Nam chiến đấu nhưng tổ chức điều động tôi ra nông trường.

Khi theo cách mạng, tôi đã thề sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng nếu quê hương còn bóng giặc. Bây giờ, vẫn quyết tâm dứt áo ra đi, bỏ lại người vợ trẻ mòn mỏi chờ đợi đến ngày chiến thắng, nhưng nếu tôi hy sinh thì sao? Bao nhiêu câu hỏi dồn nén, tôi không thể trả lời ngay. Tôi đem suy nghĩ này hỏi vợ. Cô ấy im lặng. Chúng tôi cũng chỉ là những con người bình thường. Ai cũng muốn có cuộc sống hạnh phúc, vợ chồng bên nhau, cùng xây dựng tổ ấm gia đình. Do đó, vợ tôi đắn đo, suy nghĩ cũng phải. Một lúc lâu, vợ tôi bảo: “Em đã chứng kiến mẹ mòn mỏi chờ cha và nhìn mẹ nuốt nước mắt để nuôi con khi nghe tin cha hy sinh. Nhưng thời buổi đất nước chia cắt, mình cũng không thể ích kỷ. Nếu anh đã quyết thì em cũng không ngăn cản. Mong sao sớm đến ngày chiến thắng để vợ chồng đoàn tụ”. Nghe những câu nói của vợ, tôi biết cô ấy đã trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng vô cùng khó khăn. Không có người phụ nữ nào vừa mới lấy chồng lại muốn chồng đi xa, trong khi vẫn có cơ hội để ở gần. Tôi không biết nói gì hơn, chỉ biết thầm cảm ơn sự hy sinh to lớn của người vợ trẻ.

leftcenterrightdel

Anh hùng Thái Phước Hiệp (thứ ba, từ phải sang) cùng các đồng đội về thăm lại thành phố Kon Tum (tháng 1-2013). Ảnh do gia đình cung cấp

Bấy giờ, Nông trường quốc doanh Lệ Ninh có đợt tuyển quân bổ sung cho chiến trường miền Nam. Danh sách, số lượng do Tỉnh ủy Quảng Bình quyết định. Tuy nhiên, chỉ những cán bộ chủ chốt của nông trường và cá nhân liên quan được biết, còn tất cả đều bí mật. Cả nông trường đi đợt này gồm 4 người là: Trà Giang, Tùng Lâm (đều quê ở Quảng Ngãi), anh Vui (người Gia Lâm, Hà Nội) và tôi (quê ở Quảng Nam). Biết trước đây tôi có nguyện vọng được trở về miền Nam chiến đấu nên Ban Thường vụ Đảng ủy nông trường gọi tôi lên gặp gỡ, nắm lại tình hình.

Tôi chân thành báo cáo: “Nguyện vọng tha thiết của tôi là được trở về chiến đấu trên quê hương, nay vẫn không có gì thay đổi. Tuy nhiên hiện tại, vợ tôi đang có thai. Khi tôi đi, mong Đảng ủy, Ban giám đốc nông trường quan tâm, giúp đỡ”. Các anh trong Đảng ủy đều gật đầu khẳng định: “Đây là trách nhiệm của toàn nông trường”. Có được lời động viên ấy, tôi thêm phần yên tâm. Vì thực ra, thỉnh thoảng lại có một đợt tuyển quân nhưng công nhân không biết những người đó được chuyển công tác đi đâu, đến nông trường nào. Công tác chăm sóc hậu phương Quân đội được cán bộ, lãnh đạo nông trường làm rất tốt. Người đi sau thấy vậy cũng yên tâm lên đường.

Với mọi người phải tuyệt đối giữ bí mật, nhưng với vợ con thì chúng tôi được phép thông báo là chuẩn bị đi B, còn đi B là đi đâu thì không được tiết lộ. Vợ tôi lúc ấy đang bụng mang dạ chửa, nghe bảo tôi chuyển sang một đơn vị Quân đội nên cũng không quá lo lắng. Vì cô ấy không biết đi B là đi vào chiến trường miền Nam mà tưởng tôi chuyển sang đơn vị Quân đội ở miền Bắc, xét ra thì cũng không nguy hiểm. Biết vậy, tôi không nói gì nữa, chỉ mong cô ấy sinh nở “mẹ tròn con vuông”. Đêm cuối trước khi chia tay, chúng tôi thống nhất đặt tên con: Nếu là con gái thì đặt tên là Thái Thị Hồng Vân, con trai đặt tên là Thái Hồng Sơn.

Nông trường tổ chức liên hoan nhẹ chia tay chúng tôi với lý do chuyển đến chỗ làm mới. Sau đó, chúng tôi được lãnh đạo Tỉnh ủy gặp mặt, động viên trước khi lên đường làm nhiệm vụ. Đợt này, cả tỉnh Quảng Bình có 12 người. Chúng tôi được xe của Ban Thống nhất chở lên Phú Thọ, tập trung ở một trung tâm huấn luyện của Quân đội. 

Sau khi huấn luyện được một tháng rưỡi, khoảng tháng 8-1963, chúng tôi bất ngờ được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm. Gặp chúng tôi, Thủ tướng ân cần nói: “Bác cũng muốn về miền Nam nhưng sức khỏe không cho phép. Các cháu vào trước, đến ngày chiến thắng bác sẽ vào. Chúc các cháu sức khỏe, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng”. Được Thủ tướng từ Hà Nội lên thăm, anh em chúng tôi cảm động không nói nên lời.

Qua Tết Giáp Thìn 1964 ít hôm, chúng tôi nhận được thông báo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lên thăm và trực tiếp giao nhiệm vụ cho lớp huấn luyện. Người Anh Cả của Quân đội ân cần căn dặn chúng tôi giữ gìn bí mật, kỷ luật Quân đội trên dọc đường đi, trong bất luận hoàn cảnh nào cũng giữ vững phẩm chất, đạo đức, khí tiết của người cán bộ, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng. Trước lúc lên xe trở về, Đại tướng và các đồng chí đi cùng đoàn lần lượt bắt tay từng người và chúc chúng tôi sức khỏe, đoàn kết, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Được Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, động viên, giao nhiệm vụ, chúng tôi cảm thấy vinh dự và trách nhiệm đặt trên vai, mà không biết ý định của tổ chức là đào tạo chúng tôi thành cán bộ nguồn cho chiến trường miền Nam. Về cá nhân, trong thời gian huấn luyện, tôi nhận được một lá thư của vợ thông báo đã sinh con gái và đặt tên là Thái Thị Hồng Vân như vợ chồng đã trao đổi trước khi tôi lên đường. Lúc ấy, tôi chỉ ước ao được nhìn mặt con một lần trước khi về miền Nam chiến đấu. 

Kết thúc huấn luyện, chúng tôi hành quân bằng ô tô vào thẳng Quảng Bình. Dừng nghỉ một đêm ở xã Hiền Ninh (Quảng Ninh, Quảng Bình), tôi trốn về thăm vợ con, nhưng đi được nửa đường thì tôi quyết định trở về đơn vị. Hôm sau, xe chở chúng tôi qua cầu Bốn, cách Nông trường quốc doanh Lệ Ninh tầm 500m, tôi vén tấm che cửa trên bạt xe nhìn về nơi đó. Đây là lần cuối cùng tôi được gần vợ con nhất trước khi vào chiến trường.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Làng Ho bên dãy Trường Sơn hùng vĩ là nơi bộ đội tập kết trước khi chính thức vào chiến trường miền Nam. Tại Hà Nội, chúng tôi đã được cấp súng ngắn. Đến Làng Ho, để bảo đảm cho cán bộ vào miền Nam, ngoài ba lô, quân trang, gạo đủ ăn 7 ngày (mỗi ngày 8 lạng) và một số nhu yếu phẩm, mỗi người còn được cấp 1 khẩu súng AK-47, 3 băng đạn, 2 quả lựu đạn và xẻng công binh. Từ đây, chúng tôi mới thực sự trở về miền Nam chiến đấu.

NGUYỄN SỸ LONG