Cầm trên tay cuốn hồi ký “Một chặng đường cách mạng” của Thiếu tướng Trần Thế Môn, do gia đình gửi tặng, các cựu chiến binh hồ hởi trò chuyện, bổ sung thêm những chi tiết mà bản thân trực tiếp tham gia hoặc được biết. Dù hầu hết đã ở tuổi xưa nay hiếm nhưng khi nhắc đến Thiếu tướng Trần Thế Môn và những kỷ niệm không quên, ai cũng hào hứng. Đại tá Trần Thế Việt, con trai cả của Thiếu tướng Trần Thế Môn kể: “Tháng 5-1982, cha tôi bắt đầu viết cuốn hồi ký này. Tính cụ cẩn thận lại hay hoài niệm, nên phải mất đến 19 năm, sau nhiều lần hiệu chỉnh, bổ sung mới hoàn thành. Những trang viết không đơn thuần kể về cuộc đời hoạt động của cha, mà như nhiều lần ông tâm sự với chúng tôi, còn là để thế hệ sau hiểu thêm về cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ và rất đỗi vẻ vang của cha anh mình”.
Đồng chí Trần Thế Môn sinh năm 1915 tại xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông sớm thoát ly gia đình, đi làm công nhân hỏa xa ở Hải Phòng. Từ trải nghiệm đời sống cần lao mà ông đến với cách mạng, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân. Năm 24 tuổi, vì tham gia đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế, ông cùng 300 anh em khác bị thực dân Pháp bắt giam. Nhưng trước sự đấu tranh mạnh mẽ của những người yêu nước, chúng buộc phải thả tất cả những người bị bắt sau 3 ngày giam cầm. Giai đoạn này, đồng chí Già, tức Lương Khánh Thiện, Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ cũng đang hoạt động ở Hải Phòng. “Một buổi tối tháng 11-1940, anh Thiện rủ tôi đi dạo và đàm đạo. Anh cho rằng dưới chế độ này thực chất chẳng có gì, chỉ sau khi cách mạng thành công, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người mới thực sự có hạnh phúc. Anh nói: “Sau một thời gian theo dõi công tác và qua những bước thử thách hoạt động, nhận thấy đồng chí đã đủ tư cách, tiêu chuẩn của đảng viên, tôi thay mặt tổ chức Đảng tuyên bố kết nạp đồng chí vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Bắt đầu từ hôm nay, đồng chí là một đảng viên dự bị của Đảng, thời gian dự bị là hai tháng”, ông viết trong hồi ký.
    |
 |
Thiếu tướng Trần Thế Môn (thứ hai, từ phải sang) tại cuộc gặp mặt kỷ niệm 50 năm Ngày khởi nghĩa Thanh La, năm 1995. |
Về sự kiện vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng, sinh thời, đồng chí Trần Thế Môn cũng nhiều lần kể cho các con nghe. Ông Trần Thế Dũng, con trai thứ hai của Thiếu tướng Trần Thế Môn nhớ lại: “Cha tôi bảo tuy hôm đó chỉ có ông và đồng chí Lương Khánh Thiện, không có Đảng kỳ và ảnh lãnh tụ, song buổi lễ vẫn rất trang nghiêm. Lắng nghe những phân tích nhẹ nhàng, nghiêm nghị của đồng chí Lương Khánh Thiện như chỉ thị của Đảng, ông đã đứng với tư thế nghiêm chỉnh, xin thề suốt đời chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp của Đảng”.
Không lâu sau đó, đảng viên trẻ Trần Thế Môn phải trải qua những thử thách khốc liệt trong cuộc đời người chiến sĩ cộng sản: Bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai. Tháng 4-1941, chúng kết án 10 năm tù khổ sai, đày ông lên nhà tù Sơn La rồi nhà tù Chợ Chu, căng Bá Vân. Trước đòn roi của kẻ thù, ông và nhiều bạn tù khác như các đồng chí: Tô Đẩu, Trần Huy Liệu, Song Hào, Tạ Xuân Thu, Lê Hiến Mai... quyết không chịu khuất phục. “Biến nhà tù đế quốc thành “trường học cộng sản”, “lò luyện thép” tôi luyện ý chí cách mạng, Đảng ta đã khôn khéo tổ chức và lãnh đạo để những ai đã rèn luyện qua đều có trình độ chính trị, giác ngộ giai cấp, có lý tưởng và tuyệt đại đa số trở thành người cộng sản, cán bộ tốt của Đảng. Cha đã vinh dự được rèn luyện trong trường học ấy mà trưởng thành”, sinh thời, Thiếu tướng Trần Thế Môn thường nói với các con như vậy.
Là một trong những người gần như cả thời quân ngũ được phục vụ thủ trưởng Trần Thế Môn, cựu chiến binh, bác sĩ quân y Mai Xuân Trường (97 tuổi, hiện đang sinh sống ở phường Việt Hưng, TP Hà Nội) biết nhiều kỷ niệm của Thiếu tướng Trần Thế Môn. Ông bảo, những năm tháng làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho thủ trưởng Môn, ông cảm nhận sâu sắc về một vị tướng trận mạc nghiêm túc trong công việc và rất tình cảm trong cuộc sống. Thiếu tướng Trần Thế Môn sống giản dị, không cầu kỳ và luôn coi cấp dưới như người thân trong gia đình mà đối đãi. Chính vì vậy, mỗi khi rảnh rỗi, ông hay kể chuyện cho họ nghe, nhất là những ngày bị địch bắt, tù đày mà nuôi ý chí vượt ngục để về với nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa cách đây 80 năm.
Qua lời kể của cựu chiến binh Mai Xuân Trường và những trang hồi ký của Thiếu tướng Trần Thế Môn, chúng tôi hiểu hơn về một vị tướng trưởng thành từ những ngày đầu của cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc với muôn vàn khó khăn, thử thách. Hòa mình vào cuộc sống lao khổ của giai cấp công nhân mới ra đời dưới sự thống trị, bóc lột của bọn tư bản thực dân, ông bước vào con đường cách mạng, dấn thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Quãng thời gian bị giam cầm khổ sai trong các nhà tù thực dân, ngoài mặt thì “tỏ vẻ hợp tác” nhưng thực tế Trần Thế Môn và những người cộng sản cùng nhau vạch ra một kế hoạch vượt ngục. Ông Mai Xuân Trường kể: “Tôi không sao quên ánh mắt tự hào xen lẫn bồi hồi của thủ trưởng Môn mỗi khi nhớ về cuộc vượt ngục năm đó. Ông bảo, bản thân đã vô cùng phấn khởi lúc được nghe chi bộ nhà tù phổ biến chủ trương tổ chức cho một số đồng chí trong đó có mình vượt ngục. Mặc dù biết ra ngoài hoạt động phải bí mật, lén lút, gian khổ, nếu không cẩn thận sẽ bị bắt trở lại, bị tra tấn, tù đày “sống không bằng chết”, nhưng ông đều coi thường tất cả. Còn gì sung sướng hơn khi được trở về với Đảng, được sống trong sự che chở, đùm bọc của nhân dân, được đem sức lực, trí tuệ và tinh thần của mình phục vụ, góp phần nhỏ bé vào việc xây dựng phong trào”.
    |
 |
Thiếu tướng Trần Thế Môn (hàng đứng, ngoài cùng, bên trái) và các đồng chí từng là tù chính trị bị bắt giam tại nhà tù Sơn La. Ảnh tư liệu do gia đình cung cấp |
Bấy giờ, công tác chuẩn bị vượt ngục diễn ra âm thầm để tránh tai mắt của kẻ thù. Đến tháng 9-1944, thời cơ đến, Trần Thế Môn và 11 đảng viên, cán bộ cách mạng quyết định hành động. Sau hơn hai ngày đêm băng rừng lội suối thật nhanh, thậm chí dù đói lả cũng không dám dừng lại ăn vì đề phòng kẻ thù đuổi bắt, họ đã vượt ngục thành công, được tổ chức phân công về bổ sung lực lượng cho Phân khu Nguyễn Huệ. Sau đó, đồng chí Trần Thế Môn nhận nhiệm vụ của Đảng giao về tăng cường cho Trung đội Cứu quốc quân 3, hoạt động ở khu vực Chợ Chu, Đại Từ (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang). Sau đó ông liên tục được phân công chỉ huy các đơn vị vũ trang tuyên truyền cơ động mới thành lập. Thời gian này, ông đã cùng đồng bào các dân tộc tham gia khởi nghĩa Thanh La, chỉ trong một ngày đêm của tháng 3-1945, toàn bộ chính quyền tay sai bị đánh đổ, chính quyền cách mạng được thành lập.
Khởi nghĩa Thanh La được coi là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi sớm, mở đầu cho phong trào khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa trên một vùng rộng lớn ở Việt Bắc và toàn quốc sau này. Mặt trận Việt Minh ra công khai lập chính quyền, những khu Giải phóng, châu Tự Do, xã Toàn Thắng... ra đời cho thấy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang và thắng lợi của cách mạng đang đến rất gần. “Trong thời gian hoạt động ở đây, đơn vị của tôi luôn lưu động xây dựng, củng cố chính quyền, tổ chức dân quân du kích, giữ gìn trật tự an ninh, làm vườn không, nhà trống. Kế hoạch của đơn vị tôi là đến xã nào thì khẩn trương tổ chức chính quyền, tổ chức dân quân, mặt trận và các tổ chức đoàn thể rồi để người ở lại vừa bồi dưỡng vừa làm cố vấn, còn đơn vị đi tiếp sang nơi khác. Cách làm là cứ làm hết các xã trong một tổng, tổ chức ra Ủy ban tổng rồi sang tổng khác. Làm xong tổng sau lại về kiểm tra toàn diện tổng trước, sau đó đi chỗ khác. Cứ như vậy, cho đến hết tháng 6-1945, hơn 10 tổng và hơn 30 xã thuộc 3 huyện Hàm Yên, Yên Sơn, Yên Bình đã xóa bỏ được toàn bộ chính quyền địch, xây dựng chính quyền ta, lực lượng vũ trang quần chúng và các đoàn thể cách mạng. Nhân dân cũng như các đoàn thể đều được học tập đường lối, chính sách của Đảng và của Mặt trận Việt Minh”, Thiếu tướng Trần Thế Môn kể trong hồi ký.
Trong những ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Trần Thế Môn phụ trách một đội quân tham gia giành chính quyền ở thị xã Tuyên Quang. Từ đêm 17 đến 21-8, các đội vũ trang đã phối hợp chặt chẽ với nhau, tiến đánh các đồn bốt, trại bảo an và đến ngày 22-8-1945, thị xã Tuyên Quang hoàn toàn giải phóng...
Cuộc đời Thiếu tướng Trần Thế Môn gắn bó với trận mạc. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp với biết bao chiến dịch lớn nhỏ, ông về công tác ở Cục Dân quân rồi Quân khu Tây Bắc. Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, tháng 8-1966, ông được lệnh vào chiến trường nhận nhiệm vụ là Chính ủy Mặt trận B3-Tây Nguyên khi đã ngoài 50 tuổi, nhưng trước khi lên đường 3 ngày, ông lại nhận được quyết định đi Mặt trận Đường 9-Bắc Quảng Trị làm Chính ủy mặt trận trước. Một vinh dự đặc biệt và cũng là sự động viên to lớn đối với ông và đồng đội trước khi lên đường là Bác Hồ đã đến tận nơi thăm hỏi. Người dặn: “Nay các chú đi miền Nam chiến đấu, dù có gian khổ đấy nhưng đã khác trước rất nhiều. Chúng ta có Đảng lãnh đạo, có đường lối đúng đắn, có chính quyền cách mạng, có lực lượng vũ trang lớn mạnh đã đánh thắng đế quốc thực dân Pháp; có mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lại có miền Bắc hoàn toàn giải phóng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, là căn cứ cách mạng của cả nước... Đánh Mỹ có gian khổ, lâu dài nhưng nhất định thắng, vì thế các chú cần làm tốt mọi việc Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã dặn”.
Kỷ niệm về cuộc gặp và lời căn dặn ấy của Bác được ông và đồng đội ghi nhớ, là động lực to lớn để ông hoàn thành nhiệm vụ nơi chiến trường ác liệt và cống hiến cho Quân đội đến khi nghỉ công tác.
BẢO LINH - HƯỚNG NAM