Mai Thúc Loan (tên khác là Mai Huyền Thành) sinh năm Canh Ngọ (670). Thân mẫu Mai Thúc Loan quê ở làng Mai Phụ, huyện Thiên Lộc (nay là xã Mai Phụ), tỉnh Hà Tĩnh. Theo tương truyền, sau khi mang thai, bà chuyển đến thôn Ngọc Trừng, xã Đông Liệt, huyện Sa Nam, Hoan Châu (nay là xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) sinh sống và sinh ra Mai Thúc Loan. Lớn lên trong cảnh đất nước nằm dưới ách thống trị hà khắc của nhà Đường, người dân phải sống vô cùng khổ cực, càng nung nấu trong tâm trí chàng trai trẻ Mai Thúc Loan lòng căm thù sâu sắc quân cướp nước.

Năm 713, Mai Thúc Loan quyết định chiêu mộ nghĩa quân đứng lên khởi nghĩa. Theo thần tích đền Đông Liệt (Nam Đàn, Nghệ An), Mai Thúc Loan vận động trai tráng trong làng luyện tập võ nghệ, rồi cho người đi các nơi vận động nhân dân và hào kiệt bốn phương tham gia khởi nghĩa. Đông đảo nhân tài, hào kiệt ở khắp Hoan Châu, Diễn Châu, Ái Châu (nay là các vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa) đã lần lượt đến hội tụ dưới cờ nghĩa của Mai Thúc Loan.

leftcenterrightdel
 Minh họa: QUANG CƯỜNG

Để có chỗ đứng chân cho nghĩa quân xây dựng và hoạt động, Mai Thúc Loan chọn vùng Sa Nam, nơi có rừng núi rậm rạp cạnh sông Lam để xây dựng căn cứ chống giặc. Việc chọn Sa Nam làm căn cứ khởi nghĩa thể hiện Mai Thúc Loan có tầm nhìn chiến lược. Từ đây, nghĩa quân có thể xuôi dòng sông Lam ra biển, hoặc có thể ngược dòng sông Lam rút lên vùng trung lưu, thượng lưu sông Cả thuộc vùng miền núi phía Tây

Nghệ An, Hà Tĩnh khi gặp khó khăn. Mặt khác, từ Sa Nam, nghĩa quân có thể vượt qua dãy núi Đại Huệ ra các huyện (trước đây): Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, hoặc qua vùng Xuân Hồ, Xuân Liên (nay thuộc xã Vạn An, Nghệ An) đến xã Nam Anh (nay là xã Đại Huệ, Nghệ An), qua Truông Hến đến Nghi Xuân ra Diễn Châu, Quỳnh Lưu (Nghệ An), rồi ra Bắc.

Lợi dụng địa thế hiểm yếu Sa Nam có sông sâu, rừng rậm, Mai Thúc Loan chỉ đạo nghĩa quân xây dựng thành một cụm căn cứ quân sự liên hoàn, thuận tiện cho tiến công và phòng thủ. Toàn bộ căn cứ Sa Nam được xây dựng trải rộng trên một địa bàn được bao bọc bởi hệ thống hào tự nhiên, gồm: Sông Lam ở phía Nam và Đông Nam; hồ Nón (bàu Nón) ở phía Đông và Đông Bắc; bàu Sen, bàu Lầm ở phía Tây che chắn từ thành Vạn An đến Vệ Sơn, Ngọc Đái Sơn, Biều Sơn và Hùng Sơn.

Hồi đó, Vệ Sơn và Nam Sơn liền kề nhau, với những rừng tre, gỗ mọc ken dày san sát, tạo thành những bức tường lũy thiên nhiên, vừa bảo đảm cho các hoạt động của nghĩa quân, vừa có tác dụng ngăn cản bước tiến của quân thù. Cách sông Lam khoảng 450-500m, Mai Thúc Loan chỉ đạo nghĩa quân xây dựng thành Vạn An, phía ngoài thành dọc theo bờ sông đắp một hệ thống chiến lũy dài hơn 10.000m và có núi Hùng Sơn (núi Đụn) ở bên làm chỗ dựa. Phía trong núi Hùng Sơn là một dải thung lũng rộng vài chục mẫu, xây dựng nhiều đồn trại ở dưới chân, xung quanh sườn núi. Bao quanh Vệ Sơn (khu trung tâm), nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn trại liên hoàn, trong đó Liêu Sơn bảo vệ mặt phía trước, Biều Sơn bảo vệ cánh tả. Cạnh thành Vạn An là Ngọc Đái Sơn, nơi đặt đồn của chủ tướng thống lĩnh cả hai đạo quân thủy, bộ.

Mai Thúc Loan còn chọn Hùng Sơn, cách Vệ Sơn 2km về phía sau làm nơi phòng thủ khi khu căn cứ trung tâm bị địch chiếm. Phía sau núi Hùng Sơn là một thung lũng rộng vài chục mẫu, có nhiều ruộng, rẫy được Mai Thúc Loan chọn làm nơi vừa sản xuất lương thực, vừa dựng lán trại, huấn luyện quân sĩ, đặt lò rèn đúc vũ khí chiến đấu; đồng thời cũng là nơi lui về cố thủ khi căn cứ trung tâm gặp khó khăn. Để ngăn chặn thủy quân giặc, ngoài việc đặt các trạm gác ven sông, bố trí một số thuyền chiến nhỏ, sẵn sàng cơ động đánh thủy binh giặc, Mai Thúc Loan chỉ đạo nghĩa quân đắp nhiều lũy dọc bờ sông Lam, nối liền với Vệ Sơn. Trên mặt các lũy này đều đóng cọc gỗ, phía chân lũy trồng tre. Các đồn trại ở phía Nam các núi Hồng Lĩnh, Can Mai, Tháp Cờ đều có lực lượng nghĩa quân trấn giữ, canh gác, bảo vệ khu căn cứ trung tâm Sa Nam.

Sau khi hoàn thành xây dựng căn cứ Sa Nam, thuận theo lòng dân, Mai Thúc Loan xưng đế và đóng đô ở thành Vạn An. Sử cũ gọi ông là Mai Hắc Đế (vua đen họ Mai). Từ đây, cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan tổ chức và lãnh đạo đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc có quy mô lớn. Để có thêm lực lượng, Mai Thúc Loan tìm cách liên kết với các thủ lĩnh miền núi thuộc Hoan Châu, với các nước Chăm Pa (Lâm Ấp) ở phía Nam, Chân Lạp ở phía Tây... Ghi nhận việc xưng đế và phát triển lực lượng nghĩa quân, “Đại Việt sử ký toàn thư”, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993, trang 190, ghi: “Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn”; còn “Tân Đường thư”, “Dương Tư Húc truyện” ghi số quân của Mai Thúc Loan là 40 vạn người. Theo “Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam”, quyển 1: “Lịch sử quân sự”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2015, trang 680, thì Mai Thúc Loan “trong thời gian ngắn đã liên kết được với các tù trưởng và dân chúng thuộc 32 châu xung quanh, khiến thanh thế của nghĩa quân ngày thêm mạnh”.

Với thế và lực mạnh hơn hẳn, nghĩa quân do Mai Thúc Loan chỉ huy từ căn cứ Sa Nam tiến công, bao vây đánh chiếm châu lỵ Hoan Châu; sau đó nhanh chóng đánh ra các vùng Ái Châu và Giao Châu (miền Bắc ngày nay). Thừa thắng, Mai Thúc Loan chỉ huy nghĩa quân đánh thẳng vào phủ thành Tống Bình (nay là Hà Nội), nơi đặt trị sở của chính quyền đô hộ nhà Đường ở Giao Châu do Quang Sở Khách đứng đầu. Không chống cự nổi trước sức mạnh tiến công của nghĩa quân, Quang Sở Khách cùng toàn bộ quan quân dưới quyền phải vội vã bỏ thành rút chạy về nước. Cùng thời gian này, nhân dân nhiều nơi ở Giao Châu cùng nhất loạt nổi dậy theo nghĩa quân Mai Thúc Loan đánh đuổi quan quân đô hộ nhà Đường ở các huyện thành, giành quyền làm chủ hoàn toàn đất nước. Tương truyền rằng, sau khi đánh đuổi quân nhà Đường, vua Mai Hắc Đế liền ban lệnh xóa bỏ những thứ thuế do chính quyền đô hộ nhà Đường áp đặt. Nhà nước độc lập với danh xưng hoàng đế được duy trì 10 năm (713-722). Mai Hắc Đế lấy thành Vạn An làm quốc đô.

Bị thất bại ở Giao Châu, cuối năm 722, vua Đường Minh Hoàng lập tức cử Dương Tư Húc-một trong những tướng lão luyện thống lĩnh 100.000 quân tinh nhuệ, cùng với Quang Sở Khách cấp tốc tiến quân sang, hòng tiêu diệt nghĩa quân, dập tắt cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Trước thế giặc mạnh và có tổ chức, nghĩa quân Mai Thúc Loan đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do trình độ, kinh nghiệm chiến đấu và trang bị kém hơn nên không ngăn chặn được địch. Chúng chiếm lại thành Tống Bình và các khu vực thuộc lưu vực đồng bằng Giao Châu; tiếp đó, địch mở cuộc hành binh lớn tiến đánh Hoan Châu.

Nghĩa quân do Mai Thúc Loan chỉ huy vừa đánh ngăn chặn, vừa lui dần lực lượng về thành Vạn An. Sau nhiều trận đánh diễn ra ác liệt từ lưu vực sông Hồng tới lưu vực sông Lam, lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng và suy yếu, thành Vạn An thất thủ. Mai Thúc Loan cùng một bộ phận nghĩa quân phải rút vào rừng tiếp tục duy trì hoạt động thêm một thời gian nữa. Năm 723, Mai Thúc Loan lâm bệnh và mất, được nhân dân địa phương lập đền thờ ở Vệ Sơn (núi Vệ) và trong thung lũng Hùng Sơn. Tuy chưa có nhiều tư liệu về tinh thần chiến đấu quả cảm cùng những chiến công của Mai Thúc Loan và nghĩa quân của ông, nhưng điểm nổi bật là “việc chọn Sa Nam làm căn cứ khởi nghĩa, từ đó không ngừng mở rộng liên kết địa bàn xung quanh, nhờ thế mà cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan đã không bị bó hẹp trong phạm vi của các châu vùng miền Trung mà mở rộng ra vùng đồng bằng Bắc Bộ-từ lưu vực sông Lam đến lưu vực sông Hồng, từ cuộc khởi nghĩa giành chính quyền phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô lớn, giành thắng lợi” (theo “Lịch sử quân sự Việt Nam”, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2019, trang 256)...

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP