Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830 ở làng Tịnh Hà, tổng Thanh Quơn, huyện Kiến Hưng, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường (nay là xã Mỹ Tịnh An, tỉnh Đồng Tháp). Hồi nhỏ, Nguyễn Hữu Huân tỏ tư chất thông minh và hiếu học. Năm 1852, ông đỗ đầu kỳ thi Hương tại trường thi Gia Định, từ đó, sĩ phu và nhân dân trong vùng tôn kính, mến gọi ông là “Thủ khoa Huân”. Với tài năng và đạo đức trong sáng của mình, ông được triều đình Huế phong chức Giáo thụ (Đốc học, chức vụ quản lý học hành, thi cử tại một huyện dưới triều Nguyễn) ở phủ Kiến An.

Thế nhưng, nhiệm vụ quản lý, đào tạo nho sĩ của Nguyễn Hữu Huân chưa được bao lâu thì ngày 17-2-1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định. Trước tình hình đó, tháng 5-1859, Nguyễn Hữu Huân từ bỏ chức Giáo thụ, đứng ra chiêu mộ trai tráng trong vùng, thành lập đội nghĩa binh, sau một thời gian phát triển lên đến hàng nghìn người. Những năm 1859-1861, đội nghĩa quân Nguyễn Hữu Huân cùng với các đội nghĩa quân Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương phối hợp với quân triều đình chiến đấu, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Điển hình là trận do Nguyễn Hữu Huân chỉ huy nghĩa quân chặn đánh quân Pháp ở kênh Bảo Định (từ ngày 1 đến 11-4-1861) và trận chiến đấu ở căn cứ Mỹ Quý (giữa năm 1861)...

Trong lúc phong trào kháng chiến chống Pháp đang dâng cao, ngày 5-6-1862, triều đình Huế lại ký Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862), có nhiều điều khoản, trong đó triều đình Huế thừa nhận 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) thuộc Pháp và phải lệnh giải tán các đội nghĩa binh đang chống Pháp ở 3 tỉnh miền Đông. Trái hẳn với triều đình, đại bộ phận nhân dân dưới sự lãnh đạo của một số văn thân sĩ phu tiếp tục đánh Pháp. Được tin Trương Định tiếp tục chống Pháp ở An Giang, tháng 6-1862, Thủ khoa Huân chuyển toàn bộ lực lượng của mình tham gia cuộc khởi nghĩa của Trương Định. Năm 1863, ông chỉ huy nghĩa quân phục kích, đánh địch ở các vùng Tam Bình, Mỹ Quý, Thuộc Nhiêu và Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Nhằm phát triển lực lượng mạnh hơn nữa, Nguyễn Hữu Huân rất coi trọng vận động nhân dân tham gia chống Pháp. Ông còn cử người vào các xóm ấp của đồng bào Khmer, kêu gọi bà con tham gia đánh giặc, bảo vệ quê hương. Được nhân dân ủng hộ, nghĩa quân Nguyễn Hữu Huân mở rộng địa bàn hoạt động ra các tỉnh An Giang, Long An, Hà Tiên và Châu Đốc.

leftcenterrightdel
 Một góc phố mang tên Nguyễn Hữu Huân ở Thủ đô Hà Nội. Ảnh: NINH CHÂU

Tháng 6-1863, trước sức tiến công của quân Pháp, căn cứ Thuộc Nhiêu thuộc xã Diễm Điềm, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường (nay thuộc phường Cai Lậy, tỉnh Đồng Tháp) bị tan vỡ, Nguyễn Hữu Huân ra lệnh rút nghĩa quân về vùng Thất Sơn (An Giang) bắt liên lạc với Thiên hộ

Võ Duy Dương bàn kế hoạch chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Trước những hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Nguyễn Hữu Huân, tháng 7-1864, Tổng đốc Phan Khắc Thận ở An Giang đã bắt Nguyễn Hữu Huân giao nộp cho Pháp. Dùng mọi thủ đoạn dọa dẫm, mua chuộc không làm lung lay được tinh thần yêu nước bất khuất của Nguyễn Hữu Huân, ngày 22-8-1864, tòa án binh Pháp kết án ông 10 năm tù khổ sai, đày đi đảo Cayenne thuộc Nam Mỹ. Sau 5 năm bị giam cầm, ngày 4-2-1869, thực dân Pháp ký lệnh “ân xá” cho Nguyễn Hữu Huân về nước và giao lại cho ông chức Giáo thụ dạy bảo sinh đồ ở Chợ Lớn. Lợi dụng danh nghĩa làm Giáo thụ, Nguyễn Hữu Huân vừa dạy học, vừa bí mật liên lạc với các sĩ phu yêu nước ở Chợ Lớn để bàn định kế hoạch chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa. Năm 1872, ông trốn thoát về các vùng Mỹ Tho, Tân An cùng Âu Dương Lân, Nghè Du gấp rút chuẩn bị lực lượng tiếp tục chống Pháp.

Từ đây, phong trào kháng chiến do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo lan rộng khắp các vùng Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn. Nhiều đội nghĩa quân do các thủ lĩnh như Nguyễn Văn Chất ở Vĩnh Long; Lê Công Thành, Phạm Văn Đồng, Lâm Lễ ở Cần Thơ và Long Xuyên đều đưa lực lượng về quy tụ dưới ngọn cờ kháng chiến của Nguyễn Hữu Huân. Thời điểm này, lực lượng nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Hữu Huân tăng lên hơn 3.000 người, lập tổng hành dinh ở làng Long Trì (nay là xã An Lục Long, tỉnh Tây Ninh). Đội nghĩa quân của Nguyễn Hữu Huân được nhân dân Nam Kỳ lục tỉnh hậu thuẫn và tích cực ủng hộ, cung cấp lương thực, thực phẩm. Hoạt động của nghĩa quân lôi cuốn cả nhiều vị chức sắc địa phương tham gia. Trong đó, nhiều người đã vận động được cả làng, cả xã mình đi theo ngọn cờ kháng chiến của Nguyễn Hữu Huân, tiêu biểu như Cai tổng Tâm ở Bình Công, Bá hộ Nhứt ở Long Trì, Bá hộ Bình ở Mỹ Đạo, Hương trưởng Kiệt ở Gia Thạnh, Lê Văn Tuân ở Tân Thới Nhứt, Thạch Bướm, cùng lực lượng của các làng xã Khmer đã có những đóng góp lớn cho phong trào.

Nhằm có nguồn vũ khí trang bị cho nghĩa quân, đầu năm 1874, Nguyễn Hữu Huân sử dụng tiền quyên góp của nhân dân gửi nhóm “Trường phát” trong tổ chức “Thiên địa hội” ở Chợ Lớn để mua vũ khí. Thế nhưng, việc không thành, thuyền chở vũ khí cho nghĩa quân bị địch phát hiện, bắt giữ. Để bảo toàn lực lượng, Nguyễn Hữu Huân quyết định chuyển nghĩa quân từ Long Trì về các vùng Tân An, Mỹ Tho, xây dựng căn cứ ở Bình Cách, trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Định Tường. Mặc dù gặp khó khăn nhưng khí thế đánh giặc của nghĩa quân không suy giảm, uy tín và ảnh hưởng của Nguyễn Hữu Huân vẫn ngày càng lan rộng trong nhân dân.

Trước phong trào kháng chiến do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo ngày càng mạnh, thực dân Pháp tìm mọi cách để đàn áp. Cuối năm 1874, Pháp huy động một lực lượng lớn, từ nhiều hướng mở cuộc tiến công vào căn cứ Bình Cách. Nghĩa quân do Nguyễn Hữu Huân chỉ huy dựa vào địa thế hiểm trở và sự ủng hộ của nhân dân đã kiên cường đánh trả các cuộc tiến công của quân Pháp, giữ vững căn cứ trong nửa tháng. Bị tổn thất, giặc Pháp điều động thêm quân hỗ trợ và dùng đại bác bắn phá dữ dội vào căn cứ. Nghĩa quân đánh trả quyết liệt, nhưng do vũ khí thiếu thốn, đạn dược cạn dần, căn cứ bị địch bao vây thu hẹp. Trước tình thế khó khăn, Nguyễn Hữu Huân phải rút nghĩa quân ra khỏi căn cứ Bình Cách sang vùng Chợ Gạo củng cố lực lượng, tiếp tục hoạt động.

Những tháng đầu năm 1875, Nguyễn Hữu Huân nhiều lần bí mật trở lại vùng Tân An vận động nhân dân tham gia nghĩa quân và quyên góp tiền bạc để mua sắm vũ khí. Lúc này, thực dân Pháp luôn bao vây, lùng bắt nghĩa quân, nhất là lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa. Do sự chỉ điểm của tên phản bội đốc binh Hương, ngày 15-5-1875, quân Pháp bắt được Nguyễn Hữu Huân ở Chợ Gạo. Chúng đưa ông lên Sài Gòn, sau đó đưa về giam ở Mỹ Tho chờ ngày xét xử. Sau nhiều lần dụ dỗ mua chuộc nhưng không lung lay được ý chí quyết tâm kháng chiến của Nguyễn Hữu Huân, ngày 19-5-1875, thực dân Pháp đưa ông về làng Tịnh Hà (Kiến Hưng, Định Tường) quê ông để hành hình, khi đó ông mới 45 tuổi.

Suốt thời gian lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp và nhiều lần bị giặc Pháp bắt, song Thủ khoa Huân luôn nêu tấm gương “tận trung báo quốc” và “đạo cương thường” vì nước, vì dân. Ghi nhớ, tri ân công lao to lớn của Nguyễn Hữu Huân, hằng năm, vào ngày 14-4 âm lịch, lễ giỗ danh nhân Nguyễn Hữu Huân được tổ chức tại đền thờ ông ở xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo (nay là xã Mỹ Tịnh An, tỉnh Đồng Tháp), để tưởng nhớ ông đã nêu tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP