Tôi hăm hở khoác ba lô lên tàu Thống Nhất, ròng rã gần 2 ngày đêm mới đến ga Nha Trang, tìm đến Văn phòng đại diện của Vùng 4 Hải quân (hay của Bộ tư lệnh Hải quân tôi không còn nhớ rõ) đặt tại Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật Hải quân, nay là Học viện Hải quân. Tôi được bố trí ăn nghỉ tại nhà khách của trường, chờ đến “ngày N” sẽ có xe chở ra quân cảng Cam Ranh để lên tàu đi Trường Sa...

Chờ hơn 10 ngày vẫn không thấy động tĩnh gì, tôi lên Văn phòng dò hỏi thì được biết chuyến tàu chở đoàn công tác đến Trường Sa đã nhổ neo từ 3 hôm trước. Một cán bộ của Văn phòng phân trần là do bận công việc dịp cao điểm nên đã quên mất trường hợp của tôi, mong tôi hết sức thông cảm, chờ dịp sau vậy. Ngày ấy, mỗi năm chỉ có một đoàn công tác gồm các đại biểu Quân-Dân-Chính-Đảng và văn công, nhà báo đi Trường Sa, nên “dịp sau” tức là phải chờ đến... năm sau (!).

Mãi hơn 10 năm sau đó, tôi mới được biết nguyên nhân của cái sự “quên” nói trên có liên quan đến bài báo “Hàng và quà chưa đến tay bộ đội Trường Sa” đăng Báo Quân đội nhân dân hồi tháng 5-1988. Lỗi của cái sự “quên” chỉ là vì tôi trùng tên với tác giả bài viết. Nhưng lúc đó tôi đã hết sức lo lắng vì không thực hiện được nhiệm vụ trên giao, nhất là với một phóng viên trẻ vừa về tòa soạn chưa đầy nửa năm...

Dịp ấy, phong trào mỗi tỉnh và thành phố xây tặng bộ đội Trường Sa một ngôi nhà kiên cố đang diễn ra hết sức sôi nổi. Tôi liều mình tìm đến Công ty Vận tải biển của tỉnh Phú Khánh, trình hết các loại giấy tờ tùy thân và được chấp thuận đi theo chuyến tàu trọng tải 400 tấn, chở vật liệu xây dựng ra đảo Thuyền Chài. Khỏi phải nói niềm vui sướng vô bờ bến của tôi lúc đó! Bây giờ kể lại, hẳn sẽ có người không tin về sự may mắn quá “dễ dàng” của tôi hồi đó.

leftcenterrightdel
Nhà báo Mai Nam Thắng trong chuyến tác nghiệp ở Trường Sa, tháng 4-2015. Ảnh: ĐỨC THỌ 

Tàu bé, sóng to, đường dài... Sau gần 3 đêm 2 ngày lăn lóc nhào lộn, nôn đến cả mật xanh mật vàng, cuối cùng tôi cũng đến được Thuyền Chài, một hòn đảo chìm nằm ở gần tận cùng phía Đông-Nam của quần đảo Trường Sa. Từ đây vào đất liền, theo hải đồ là gần  1.000km. Còn nếu muốn vào thăm Trường Sa Lớn-”thủ đô” của quần đảo Trường Sa-thì mất đúng một ngày đường của tàu vận tải chạy tốc độ bình thường, mỗi giờ khoảng 10 hải lý. Thuyền Chài là hòn đảo chìm hoàn toàn, cách mặt nước trung bình trên dưới 1m. Anh em kể: Mỗi năm được một vài tháng thủy triều hạ xuống đến “cốt không”, đảo nhô hoàn toàn lên khỏi mặt nước được vài giờ. Những lúc ấy trông hòn đảo quả thật giống như một chiếc thuyền khổng lồ nằm phơi bụng dưới nắng hè. Từ đầu này “mũi thuyền” lên đến đầu kia hơn 35 cây số, bề ngang chỗ rộng nhất chừng 4 cây số. Giữa lòng “thuyền” có một cái hồ phẳng lặng như Hồ Tây, nhưng rộng và dài gấp đôi. Có thể đấy là dấu tích của một miệng núi lửa hoạt động cách đây hàng triệu năm.

Đối với những người lính ở Thuyền Chài, ngày đảo nổi quả là một ngày hội. Tha hồ mà chạy nhảy tung tăng cho thỏa thuê những ngày bó gối trong mười mấy thước vuông của sàn chòi “nhà cao cẳng”. Thế rồi lên máy bộ đàm râm ran gọi nhau... “A lô! Xuất phát nhé!”. Đầu kia chạy tới, đầu này chạy lên. Gặp nhau giữa đảo, ôm nhau, vật nhau loi choi như đám trẻ. Thông báo, hỏi han nhau vội vã. Vội vã trao nhau gói thuốc lá, ấm chè, dăm viên đá lửa... rồi lại vội vã quay về cho kịp, thủy triều sắp lên...

Tôi ra đảo không vào dịp may hiếm có như thế. Suốt một tuần liền chỉ quanh quẩn ở chòi Nam. Những ngày trời trong, nhìn lên những cái chấm li ti xa tít mù khơi ở phía Bắc mà lòng dạ cứ nôn nao... Thông cảm với tâm trạng của tôi, chiều hôm ấy, Đảo trưởng Lê Trình nhất trí cử Hà Văn Thắng, biệt danh “Thắng béo”, dân Hải Phòng, chở tôi lên khu C. Thuyền xuất phát lúc 2 giờ sáng. Gọi là thuyền nhưng thực ra chỉ là chiếc xuồng làm bằng nhôm mỏng tang, rộng chừng 3 gang tay và dài hơn một sải. Đó là loại xuồng câu chèo bằng chân, vẫn thường gặp ở các kênh rạch vùng Nam Bộ. Có điều đây là biển chứ không phải kênh rạch, bất cẩn một chút là lật úp xuống biển như chơi. Để bảo đảm an toàn, Thắng ra lệnh cho tôi nằm xuống, đầu gối lên đống dây chão ướt mèm. Mỏi cũng gắng mà chịu, không dám trở mình. Tất cả tính mạng của tôi là ở đôi chân chèo lái tài tình của “Thắng béo”. Đêm đại dương mênh mông huyền bí. Sóng ào ạt xô vào chân đảo, vẽ thành một đường bọt trắng xóa dưới ánh trăng khuya. Cứ bám vào cái vệt trắng ấy mà đi, tuy sóng dữ hơn trong lòng hồ, nhưng không sợ lạc.

Mặt trời nhô lên. Hai anh em thả neo, bóc lương khô ăn, nghỉ ngơi để lấy sức đi tiếp. Còn không đầy nửa đoạn đường, nhưng vì trời nắng, lại đã thấm mệt nên xuồng đi có phần chậm hơn. Câu chuyện của chúng tôi cũng thưa dần và tôi bắt đầu thiu thiu. Giấc ngủ chập chờn trên ngọn sóng. Bỗng “Thắng béo” kêu lên: Sắp đến rồi anh!

Tôi dụi mắt nhỏm dậy. Trước mũi xuồng hiện ra ngôi “nhà cao cẳng”, trông xa thật giống cái chòi cất vó của bà con ngư dân. Đồng hồ chỉ 10 giờ. Thế là chúng tôi đã đi ròng rã 8 tiếng đồng hồ, vượt một chặng đường đúng bằng bề ngang của eo biển Manche giữa Anh và Pháp. Có điều không phải bằng tàu sắt hay thuyền buồm, mà là bằng chiếc xuồng vỏ trấu mỏng tang, nhẹ như một chiếc lá.

Còn cách chòi chừng trăm thước, anh em trên nhà chòi hè nhau nhảy ào xuống, lội ra kéo xuồng vào. Lính biển mười anh như một. Anh nào cũng lưng trần quần cộc, đầu húi trọc, da cháy đen... Duy chỉ có đôi mắt sáng và hàm răng trắng lấp lóa. Người đầu tiên tôi nhận ra ngay là Thiếu úy, Chòi trưởng Nguyễn Duy Lâm. Thật là một cuộc gặp gỡ bất ngờ và thú vị. Hơn một năm trước đây, khi sự kiện ngày 14-3-1988, nổ ra thì tôi đang có mặt ở Lạng Sơn. Hồi đó tôi là sinh viên năm cuối đi thực tế viết luận văn tốt nghiệp. Còn Nguyễn Duy Lâm là học viên khóa 52, Trường Sĩ quan Lục quân 1 cũng đang đi thực tập cuối khóa. Anh em quen nhau rồi thân nhau. Đêm ấy, trong một căn hầm cheo leo bên vách đá của cao điểm 820, Lâm đã rủ rỉ kể cho tôi nghe mối tình thầm kín của mình với Xuân Hương, cô bạn học thời phổ thông. Tuổi học trò ai chả có những xao xuyến trẻ con như thế. Nhưng đằng này lạ lắm cơ, đã mấy năm rồi, Lâm đã từng trải và rắn rỏi hơn, thế mà hình ảnh của Xuân Hương vẫn không phai nhòa, vẫn rạo rực, bâng khuâng như thuở ấy...

 “Chuyện tình” của đôi bạn trẻ này lại có những trùng hợp cứ như hẹn ước. Năm 1984, tốt nghiệp phổ thông, Lâm thi vào Trường Sĩ quan Lục quân 1 thì Xuân Hương cũng thi vào Đại học Ngoại ngữ Quân sự. Cả lớp 12B năm ấy chỉ có hai đứa chọn con đường binh nghiệp. Mùa hè năm 1988, Xuân Hương tốt nghiệp đại học và được phân công về Bộ tư lệnh Hải quân, làm biên dịch viên ở một cơ quan nghiên cứu. Đã mấy năm nay, hai người bỏ lối xưng hô “cậu, tớ”, chuyển sang xưng tên với nhau. Mỗi lần gặp nhau dịp hè, dịp tết... và cả những bức thư, chưa một ai dám nói đến “chuyện ấy”. Thực ra thì Lâm không đến nỗi quá nhát. Nhưng vì nhà Xuân Hương giàu sang quá. Bố mẹ là cán bộ to, các anh của Xuân Hương đều “ở Tây” về, tiện nghi không thiếu một thứ gì. Xuân Hương là cô gái xinh đẹp, đời cô ấy sinh ra là để được sung sướng, được chiều chuộng... Bởi vậy mà Lâm cứ đắn đo, không dám ngỏ lời. Cho đến cái hôm gặp nhau lần cuối trước ngày Lâm khoác ba lô lên tàu ra Trường Sa, chính Xuân Hương đã chủ động nói ra cái điều bấy nay anh không dám...

leftcenterrightdel
Nhà báo Mai Nam Thắng trong chuyến tác nghiệp ở Trường Sa, tháng 4-2015. Ảnh: ĐỨC THỌ 

Kho tàng ngụ ngôn có câu chuyện “Tái ông thất mã” (ông già mất ngựa) theo triết lý “trong cái rủi có cái may và ngược lại”. Vận vào chuyến lỡ tàu của tôi năm ấy thật chí lý, bởi nhờ vậy mà tôi có hơn chục ngày thâm nhập trên một hòn đảo vào loại lớn của quần đảo Trường Sa. Ấy là vì tàu chở vật liệu ra xây nhà cho bộ đội nên chỉ đến một đảo nhất định. Và thời gian bốc hàng “tăng bo” từ tàu lên đảo, nhanh cũng ngót chục ngày. Có lẽ một phần vì thế mà sau này, tôi còn vài chuyến đi Trường Sa, nhưng đó vẫn là chuyến đi ấn tượng nhất, có thời gian thâm nhập thực tế trên một hòn đảo vào loại “kỷ lục” so với nhiều đồng nghiệp từng đi công tác Trường Sa. Và những điều mắt thấy tai nghe mà tôi ghi chép đầy 2 cuốn sổ tay trong chuyến đi ấy, là những tư liệu vô giá trong cuộc đời làm báo của tôi. Đặc biệt, bút ký “Chuyện tình chép ở Trường Sa” của tôi, viết theo cảm hứng từ mối tình của đôi bạn Lâm và Hương, đã được trao giải nhất trong Cuộc vận động sáng tác văn học-nghệ thuật kỷ niệm 35 năm thành lập Quân chủng Hải quân (7-5-1955 / 7-5-1990) do Quân chủng Hải quân tổ chức. Và những nhân vật trong bài bút ký ấy, đến nay, chúng tôi vẫn thường liên lạc với nhau...