Cựu chiến binh Lê Chí Quyết tên thật là Hồ Miên, sinh năm 1928, tại xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 1946, khi tròn 18 tuổi, ông nhập ngũ, trở thành chiến sĩ của Trung đoàn 120 (khu 5), tham gia chiến đấu chống Pháp trên chiến trường Bắc Tây Nguyên. Năm 1954, ông giữ cương vị Đại đội phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 50, Trung đoàn 120. Hòa bình lập lại, ông không trong đội hình cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc mà được tổ chức phân công ở lại Tây Nguyên lãnh đạo phong trào cách mạng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, với bí danh Lê Chí Quyết.
Từ đó, Lê Chí Quyết trở thành tên thường dùng của ông. Trải qua nhiều chức vụ khác nhau ở các cấp, đến năm 1964, ông được bầu vào Thường vụ Tỉnh ủy, giữ vị trí Chánh văn phòng kiêm Trưởng ban Tổ chức, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Đắk Lắk. Khoảng giữa năm 1966, ông có chuyến công tác ra Hà Nội và vinh dự hai lần được gặp Bác Hồ.
Cựu chiến binh Lê Chí Quyết nhớ lại: “Cuối tháng 3-1966, tôi là người duy nhất của Tây Nguyên được Ban Tổ chức Trung ương chọn là một trong số các đồng chí cán bộ miền Nam ra Hà Nội để đi tham quan 3 tháng tại Liên Xô. Sáng 15-6-1966, khi đoàn cán bộ miền Nam chúng tôi đang nghỉ tại trạm khách do Ban Tổ chức Trung ương bố trí ở Quảng Bá thì được thông báo là Bác Hồ đến thăm. Cả đoàn chúng tôi ai nấy đều vui mừng, hồi hộp khôn tả. Chúng tôi mau chóng cùng nhau lau dọn, sắp xếp bàn ghế phòng khách để đón Bác.
Hôm ấy, Bác cùng đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đến thăm, nhưng không vào phòng khách, Bác trò chuyện với chúng tôi bên gốc cây đa cổ thụ trước nhà khách. Chúng tôi nhanh chóng đứng thành vòng cung, Bác đứng giữa. Tôi, dáng người thấp nhỏ, được đứng hàng trước nên gần Bác hơn. Bác ân cần hỏi chúng tôi về hành trình từ miền Nam ra Hà Nội có vất vả lắm không? Sức khỏe thế nào? Trên đường đi các trạm giao liên đón tiếp chu đáo không? Có bị địch đánh phá không? Việc ăn ở tại trạm khách bố trí thế nào?
Rồi Bác căn dặn cả đoàn: “Hàng chục năm qua, các chú cùng đồng bào miền Nam chiến đấu gian khổ, hy sinh to lớn. Lần này, Trung ương tổ chức cho các chú sang tham quan Liên Xô. Đất nước Liên Xô cũng đã trải qua cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, hy sinh hàng chục triệu người mới có được hòa bình và phát triển. Các chú đi vừa tham quan, vừa học tập để thấy được sự anh hùng trong đấu tranh, thành quả trong xây dựng đất nước của Liên Xô. Các chú cố gắng học hỏi kinh nghiệm và chú ý giữ gìn sức khỏe để trở về miền Nam tiếp tục chiến đấu đến ngày toàn thắng!”.
Căn dặn xong, Bác vẫy tay chào chúng tôi, rồi cùng đồng chí Lê Đức Thọ và đoàn công tác ra về. Cuộc gặp Bác diễn ra thật ngắn ngủi nhưng chân tình, gần gũi biết bao. Tôi lần đầu được gặp Bác, thấy Bác giản dị và thật thân thiết”.
|
|
Cựu chiến binh Lê Chí Quyết bên tấm hình lần đầu được gặp Bác Hồ, ngày 15-6-1966. |
Sau 3 tháng ở Liên Xô, ông Lê Chí Quyết cùng đoàn trở về nước và lưu lại Hà Nội một tuần. Một lần nữa, các thành viên trong đoàn vinh dự được gặp Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch.
Sáng hôm ấy, đồng chí Lê Đức Thọ trực tiếp đón đoàn vào gặp Bác. Ông Quyết kể: “Đến Phủ Chủ tịch, đồng chí Lê Đức Thọ dẫn chúng tôi vào phòng khách nhỏ, có hai hàng ghế gỗ tựa lưng vào tường và một chiếc ghế đơn kê ở giữa phòng. Khi chúng tôi đã ngồi ngay ngắn, Bác từ phòng làm việc bên cạnh đi sang. Đi sau Bác có đồng chí Lê Đức Thọ; Thủ tướng Phạm Văn Đồng... Bác vào, mọi người đứng dậy chào. Bác vẫy tay và ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống. Bác ngồi vào chiếc ghế giữa phòng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đứng sau, đồng chí Lê Đức Thọ đứng bên cạnh Bác.
Bác hỏi chúng tôi về chuyến đi thăm Liên Xô và tình hình sức khỏe của đoàn. Rồi bất ngờ, Bác hỏi “Trong đoàn, có chú nào ở Tây Nguyên không?”. Nghe Bác hỏi, tim tôi đập nhanh, hồi hộp, cảm giác vui mừng khôn xiết. Đồng chí Lê Đức Thọ trả lời: “Thưa Bác! Có đồng chí Lê Chí Quyết ở Tây Nguyên ra ạ!”. Nghe vậy, Bác đưa mắt nhìn sang tôi, rồi hỏi: “Chú ở tỉnh nào?”. Tôi thưa Bác: “Cháu ở tỉnh Đắk Lắk ạ!”. Hôm ấy, tôi chuẩn bị kỹ lắm, dự định vào gặp Bác sẽ báo cáo về cuộc sống, công tác và chiến đấu anh dũng của bộ đội và đồng bào Tây Nguyên...
Nhưng thật bất ngờ, Bác lại hỏi những điều mà tôi không hề nghĩ tới. Là cán bộ ở đó, tôi hiểu hết mọi việc và đứng dậy trả lời suôn sẻ các câu hỏi của Bác. Tôi nhớ nhất khi Bác hỏi: “Đồng bào trong đó ăn có đủ no không?”. Tôi trả lời: “Thưa Bác, đồng bào cơm không đủ no; củ mì, củ khoai cũng thiếu. Do địch đánh phá ác liệt quá, khu sản xuất cũng bị phá. Đồng bào và bộ đội phải ăn củ rừng, rau rừng, trái cây rừng. Có cái gì trong rừng mà ăn được thì ăn. Sản xuất cũng phải bí mật trong rừng sâu để tránh địch!”.
Nghe ông Quyết trả lời xong, Bác nói: “Cái ăn thì thế, còn mặc thế nào?”. Ông Quyết thưa với Bác: “Có chút ít vải từ miền Bắc chi viện, dành ưu tiên cho bộ đội mặc để đánh giặc. Còn đồng bào phải mặc vỏ cây. Trẻ em phần lớn ở trần ạ!”. Bác hỏi thêm: “Đồng bào có muối ăn chưa?”. Ông Quyết trả lời: “Muối cũng hiếm và thiếu ạ. Muối gùi từ Phú Yên lên, hoặc chuyển từ Campuchia về, bị địch kiểm soát rất gắt gao. Vì vậy, cả bộ đội và bà con đều phải ăn tro cỏ tranh, tro lồ ô thay muối!”.
Rồi Bác hỏi sang chuyện học hành của các em nhỏ. “Thưa Bác, các cháu nhỏ học hành cũng thiếu thốn lắm ạ. Không có giấy bút, phải lấy lá chuối, lá rừng phơi héo thay giấy, vót cành tre làm bút viết lên lá. Hoặc đến chỗ đất bằng, viết lên mặt đất để học!”. Nghe ông Quyết kể, Bác đến bên, vỗ vai ông, rồi Bác ngước lên trần nhà, mắt ngấn lệ. Bác căn dặn: “Chú về trong đó, nói với đồng bào và bộ đội, đánh Mỹ đã giỏi rồi, nhưng phải làm sao để đồng bào có cơm ăn; thiếu cơm phải có rau rừng, củ rừng, con cua, con ốc để ăn no mới có sức đánh giặc. Và quan trọng nữa, phải có muối ăn, để tránh mất sức. Phải khơi luồng từ trong lòng địch, từ đồng bằng lên, từ nước bạn về, thế nào đó để có muối ăn. Cái nữa, dù thế nào cũng không để trẻ con, phụ nữ, người già thiếu mặc, nhất là mùa lạnh. Tóm lại, phải làm cho đồng bào có ăn, có mặc, được học hành để có sức đánh địch đi đến thắng lợi cuối cùng!”.
Trở về Đắk Lắk sau chuyến công tác, Lê Chí Quyết đến ngay Đài Phát thanh của tỉnh, truyền đạt lại lời căn dặn của Bác. Ông cũng báo cáo với Thường vụ Tỉnh ủy và đi đến các huyện ủy quán triệt tư tưởng chỉ đạo từ lời căn dặn của Bác để mọi người cùng thực hiện. Ông Quyết bộc bạch: “Tôi năm nay 97 tuổi, 77 năm tuổi Đảng, có 47 năm tham gia cách mạng và cả 47 năm đều gắn bó với Tây Nguyên, dù ở vị trí công tác nào, tôi vẫn đau đáu thực hiện lời căn dặn của Bác: “Phải làm cho đồng bào có ăn, có mặc, được học hành!”. Bác căn dặn thật ngắn gọn, nhưng thật lớn lao, vĩ đại. Tôi nghĩ, lời Bác dặn trong những tháng năm ấy đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị”.
Bài và ảnh: BÌNH ĐỊNH