Thế nhưng, khi đơn vị vừa rút khỏi bản Na thì biết tin, lợi dụng mưa lũ, lực lượng đặc biệt Vàng Pao và lính đánh thuê Thái Lan tràn ra đánh chiếm Cánh Đồng Chum. Cho đến tháng 7-1971, địch đã chiếm lại Phu Tâng, bản Tôn. Tiếp đó, nhiều khu vực xung quanh Xiengkhouang cũng bị chúng tái chiếm. Vì vậy, Trung đoàn 165 nhận được lệnh quay trở lại tổ chức chiến đấu, chốt giữ, ngăn cản, không cho địch tiến tiếp vào Cánh Đồng Chum.

Thời gian này, mùa mưa trên nước bạn cũng đã đến nên nhiệm vụ của chúng tôi càng gặp nhiều khó khăn. Quá trình chiến đấu, ta cần phải chốt giữ điểm cao 1316 và 1505 nằm ở phía bắc Cánh Đồng Chum, phía sau là các cơ quan của Mặt trận Quân giải phóng nhân dân Lào và trục Đường 7A nối từ biên giới Việt Nam sang Lào đến Cánh Đồng Chum. Lúc này tôi đang là Chính trị viên Đại đội 2, Tiểu đoàn 4 cùng đơn vị chốt giữ ở điểm cao 1316. Đây là vị trí trọng yếu và cũng phải đối mặt với nhiều gian khổ nên ngay từ đầu, trung đoàn và tiểu đoàn quyết định giao cho Đại đội 2 chúng tôi. Sự tin tưởng này cũng có lý do. Vì trước đó, Đại đội 2 có nhiều thành tích trong thực hiện nhiệm vụ giữ chốt, là đơn vị có tiếng “gan lì” của tiểu đoàn.

Những ngày chốt giữ ở điểm cao 1316 rất ác liệt. Máy bay, pháo binh địch đánh phá dày đặc. Bộ đội vừa chiến đấu vừa làm hầm công sự. Nhưng đúng vào mùa mưa, nên việc dựng hầm rồi giữ hầm của anh em khá vất vả. Hầm phải đầm kỹ và dày để không những tránh được bom đạn địch mà còn để che chắn những cơn mưa rừng liên miên. Các lực lượng của đại đội chúng tôi luân phiên nhau trực chốt ngày đêm. Ban ngày, bộ đội trực chốt sẵn sàng chiến đấu, ban đêm lại củng cố hầm công sự. Ai lên chốt đổi phiên cũng “tay xách nách mang” để củng cố, sửa hầm. Thế nhưng cách làm này hiệu quả không cao mà rất tốn công sức của bộ đội.

Qua quan sát một thời gian, tôi phát hiện, cứ đến khoảng 17 giờ hằng ngày, khi mặt trời đỏ hoe thường không thấy địch bắn phá. Tôi trao đổi với ban chỉ huy đại đội về điều này và thống nhất chủ trương: Cho bộ đội đi chặt cành cây và bắt đầu đưa lên chốt từ lúc 17 giờ thay vì phải chờ đến đêm như trước đó. Kết quả đúng như dự báo, bộ đội di chuyển nhanh hơn và hiệu quả công việc cũng tăng gấp đôi so với đi vào ban đêm. Từ đó, Đại đội 2 chúng tôi duy trì biện pháp này, công sự thường xuyên được gia cố, bộ đội đỡ vất vả mà yên tâm có chỗ kiên cố để tránh mưa và đạn pháo địch...

leftcenterrightdel

Tác giả Nguyễn Đức Sơn (ngồi hàng đầu, ngoài cùng bên trái) cùng đồng đội, năm 1973. Ảnh do tác giả cung cấp 

Một ngày cuối tháng 7-1971, có đoàn công tác của trung đoàn và tiểu đoàn đến kiểm tra đơn vị. Dẫn đầu là đồng chí Phó trung đoàn trưởng Trung đoàn 165; đi tháp tùng là Chính trị viên Tiểu đoàn 4 Lê Viết Viên. Đoàn đến đúng lúc một bộ phận của đại đội đang vác cành cây lên chốt. Đồng chí Phó trung đoàn trưởng lập tức ra lệnh dừng lại và yêu cầu cán bộ đơn vị báo cáo. Hướng về cán bộ trung đoàn, tôi định báo cáo thì đồng chí Phó trung đoàn trưởng chỉ sang phía Chính trị viên tiểu đoàn. Tôi nói: Báo cáo đồng chí, tôi đang cho bộ đội đi lấy cây và đưa lên chốt để xây giữ, gia cố công sự.

Cán bộ tiểu đoàn chưa kịp cất lời, đồng chí Phó trung đoàn trưởng đã nói ngay:

- Tại sao các anh lại cho bộ đội đi ra đông thế này? Pháo bắn, bộ đội thương vong thì ai chịu trách nhiệm? Cho về ngay!

Tôi trả lời: Chúng tôi đã quan sát kỹ, giờ này địch không bắn, cho bộ đội ra làm việc hiệu quả hơn...

Không chờ tôi nói tiếp, đồng chí Phó trung đoàn trưởng kiên quyết bắt dừng lại, rồi dẫn đoàn đi luôn. Đoàn rời đi rồi, tôi không suy nghĩ gì nhiều mà vẫn cho bộ đội tiếp tục công việc. Hôm sau, tôi được anh Võ Tợ, trợ lý tổ chức của trung đoàn điện xuống, thông báo đồng chí Phó trung đoàn trưởng đã báo cáo tôi cãi lại cấp trên và tác phong không đúng trong buổi giao ban của trung đoàn. Qua anh Võ Tợ, tôi được biết, đồng chí Phó trung đoàn trưởng phê bình tôi là cán bộ đại đội còn trẻ tuổi, khi báo cáo với chỉ huy lại chắp tay ra đằng sau và “cãi lại”. Tại cuộc giao ban, Trung đoàn trưởng Nguyễn Chuông đã giao cho cơ quan tìm hiểu rồi báo cáo, nếu đúng thì phải kỷ luật...

leftcenterrightdel

Đoàn cựu chiến binh Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 do Trung tướng Nguyễn Đức Sơn (hàng đầu, thứ năm, từ phải sang)

làm trưởng đoàn trong lần về thăm đơn vị cũ. Ảnh do tác giả cung cấp 

Lúc này tôi mới nghĩ ra, hôm đó quả là khi báo cáo tôi không để ý tác phong của mình mà vô tình theo thói quen đưa hai tay chắp đằng sau thật. Sau khi được thông báo tình hình sự việc, tôi cũng trong tâm thế sẵn sàng chờ đợi. Qua đồng đội, tôi được biết thêm là chỉ huy trung đoàn đã giao cho Chính trị viên tiểu đoàn Lê Viết Viên nắm lại cụ thể sự việc để báo cáo. Lâu nay, anh Viên vẫn nổi tiếng là người khắt khe, nghiêm khắc ở Tiểu đoàn 4 chúng tôi và được anh em đặt biệt danh là “dì Viên”.

Hôm đoàn kiểm tra đến, tôi cũng chưa có trao đổi gì với đồng chí chính trị viên thì đoàn đã rời đi. Nhiều anh em trong đơn vị biết chuyện, lo lắng cho tôi và đến hỏi thăm, động viên. Trong thâm tâm tôi cũng xác định, bản thân mình không có gì sai, nếu được hỏi sẽ báo cáo rõ. Vậy mà, tôi chờ mãi vẫn không thấy ai đến gặp hay có thông báo kỷ luật gì xuống đơn vị. Khoảng 2, 3 ngày sau, đồng chí Đông-chiến sĩ thông tin của đơn vị cho tôi biết hôm trước Chính trị viên Viên đã gặp anh và hỏi về tôi. Anh Đông nói với tôi: “Tao đã bảo “dì Viên” là phải nhắc nhở mày, thằng đấy suốt ngày đi ra ngoài làm việc, dễ chết lắm”. Lời của anh Đông nghe có vẻ là chê trách, thực ra là anh đang khen tôi là người trẻ tuổi nhưng xông xáo, không ngại hy sinh...

leftcenterrightdel

 Trung tướng Nguyễn Đức Sơn. Ảnh:PHẠM HƯNG

Chờ mãi, cuối cùng tôi quyết định gọi anh Võ Tợ, chưa kịp hỏi thì anh đã bảo luôn: “Mày thoát tội rồi. Ông Viên đã báo cáo với trung đoàn mày là cán bộ trẻ năng nổ, được lòng đồng đội và anh em rất tin tưởng. Sự việc vừa rồi chỉ là một hiểu lầm thôi!”. Sau này tôi mới biết, người nổi tiếng khắt khe như “dì Viên” dù ít nói nhưng cách làm việc rất nghiêm túc, thấu tình. Về sự việc của tôi, anh đã đi tham khảo, hỏi ý kiến nhiều người (không riêng anh Đông như tôi nói ở trên) về con người, tác phong công tác của tôi. Chính trị viên Viên đã trực tiếp lên gặp cán bộ trung đoàn để báo cáo rõ sự tình. Từ sự công minh, khách quan và biết lắng nghe của thủ trưởng các cấp, trong đó có Chính trị viên Lê Viết Viên, tôi càng thêm tin tưởng vào tập thể và thủ trưởng của mình, càng có động lực quyết tâm thực hiện nhiệm vụ. Hiện nay anh Lê Viết Viên đã ngoài 80 tuổi. Trong lần trò chuyện mới đây, tôi có nói đùa với anh, em sẽ viết bài về “dì Viên” đấy nhé. Anh cười xòa và cùng tôi hồi tưởng về những ngày thanh xuân chưa xa nơi chiến trường năm nào...  

Trung tướng NGUYỄN ĐỨC SƠN