Giữa năm 1971, Đại đội 10, Tiểu đoàn 15 chúng tôi đang chiến đấu bảo vệ tuyến giao thông chiến lược 559 ở phía tây dãy Trường Sơn, thuộc nước bạn Lào thì được bổ sung hơn 10 chiến sĩ mới từ miền Bắc. Tôi được lệnh bàn giao công việc cho đồng chí Hưng (quê Vĩnh Phúc) để ra trận địa chỉ huy một khẩu đội có 4 đồng chí chiến sĩ mới. Hằng ngày, chúng tôi tập trung làm công tác chuẩn bị chiến đấu và huấn luyện thao tác hiệp đồng trên mâm pháo.

Cuối tháng 9-1971, chúng tôi được lệnh về nước, vì mùa mưa đến rất nhanh. Một chặng đường hành quân đầy vất vả, xe máy-do chiến đấu lâu ngày, lại bị địch tấn công thường xuyên nên hư hỏng nhiều. Đường sá lầy lội, phải nhờ xe của binh trạm và nhờ lực lượng công binh, thanh niên xung phong mới về được biên giới tỉnh Quảng Bình.

Đầu tháng 2-1972, cấp trên lệnh cho đại đội giấu pháo, bí mật tập trung làm sân bay dã chiến Troóc. Tôi phụ trách một trung đội, có nhiệm vụ làm mặt bằng đường băng cho máy bay phản lực của ta hạ, cất cánh, phục kích chống không quân Mỹ. Sau một tháng, chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Đợt lao động làm đường băng này, đồng chí Nhập có nhiều sáng kiến, được đơn vị thống nhất báo cáo cấp trên khen thưởng. Là tổ trưởng Đảng, tôi có ý kiến đề xuất với chi bộ kiểm tra, giúp đỡ để kết nạp Đảng cho đồng chí Nhập.

Đầu tháng 3-1972, đại đội được lệnh tham gia chiến đấu cùng các đơn vị bạn quyết tâm giải phóng tỉnh Quảng Trị. Tôi được phân công phụ trách đại đội phó thay đồng chí Trần Xuân Đường. Đại đội tôi đã cùng các đơn vị bạn tham gia Chiến dịch Quảng Trị. Ngày 28-4, ta giải phóng thị xã Đông Hà. Tôi được giao nhiệm vụ đi trinh sát địa hình để kéo pháo cơ động thường xuyên. Có hôm do thời gian gấp nên chúng tôi ăn lương khô, có khi chưa kịp nuốt đã phải cơ động tránh bom pháo và địch lùng sục.

leftcenterrightdel

Tác giả (hàng ngồi, thứ ba, từ phải sang) trong lần gặp mặt đồng đội, năm 2018.

Ảnh: PHƯƠNG HUYỀN 

Từ ngày 4 đến 6-7-1972, tôi đang cùng tốp trinh sát địa hình của tiểu đoàn ở động Ông Do thì đơn vị nhận được lệnh kéo pháo vào Thành cổ Quảng Trị. Nhưng bom pháo của địch đã xối xả chặn đường. Không vào được thành cổ, anh Hệ, Đại đội trưởng báo cáo xin cho triển khai trận địa tại ngã ba Long Hưng. Dù rất căng thẳng nhưng mọi người cố gắng bình tĩnh hoàn thành trong đêm.

Địch biết ta có pháo phòng không nên chúng dùng B-52 và các loại máy bay cường kích đánh phá từ xa. Sau đó, chúng cho bộ binh tiến dọc Đường số 1 đột phá vào trận địa chúng tôi. Anh Hệ lệnh cho các khẩu đội hạ nòng, đánh địch trên mặt đất. Khi chúng tôi hết đạn, địch lợi dụng thời cơ đó, qua làng Thượng Xá tiến vào trận địa chúng tôi. Đến 18 giờ ngày 6-7-1972, cấp trên lệnh cho chúng tôi tháo máy ngắm, tháo khóa nòng, rời pháo, cho bộ đội rút về trận địa cũ phía sân bay Ái Tử cách chừng 10km.

Lúc đó, tôi cùng tốp trinh sát địa hình ở động Ông Do nhận lệnh về ngay trận địa ngã ba Long Hưng. Đêm tối, chúng tôi vào kiểm tra xem có thương binh, liệt sĩ nào còn nằm lại với pháo. Chúng tôi kiểm tra kỹ không thấy ai, rồi theo lệnh tìm về với đơn vị. Sáng 8-7, đến đại đội lúc 10 giờ, tôi kiểm tra danh sách, thấy còn thiếu 7 đồng chí đều là chiến sĩ mới, trong đó có đồng chí Nhập, khiến tôi rất lo lắng.

Ngày hôm sau, địch dùng trực thăng cẩu đi 3 khẩu pháo của đơn vị tôi tại trận địa ngã ba Long Hưng bay về hướng nam. Mất pháo, chúng tôi tiếc vô cùng. Nhưng khó khăn nhất với chúng tôi là thiếu thốn vật chất hậu cần vì trên chưa kịp bổ sung, tiếp tế. Ban chỉ huy tiểu đoàn họp bàn phương án khắc phục, động viên bộ đội giữ vững ý chí, giữ sức khỏe để tiếp tục chiến đấu. 4 giờ sáng 20-7, chúng tôi đang làm công sự, chuẩn bị nhận pháo mới thì máy bay B-52 ném bom trúng đội hình đại đội. Hai đồng chí cùng hầm với tôi hy sinh. Tôi bị thương nặng, may mắn được đồng đội phát hiện, cấp cứu rồi chuyển ra Bắc. Tôi xa đại đội anh hùng từ đó. Ngày 30-4-1975, đơn vị phòng không của chúng tôi đã cùng Quân đoàn 2 thần tốc có mặt tại Sài Gòn.

Sau này, qua thư từ, đồng đội cho tôi biết: Khi tiếp quản kho vũ khí ở trường võ bị Đà Lạt, 3 khẩu pháo của đơn vị chúng tôi vẫn nguyên. Họ nhận ra các khẩu pháo là do tên tôi đã được tôi khắc vào lớp sơn ở máy hãm lùi khi còn là pháo thủ. Còn 7 đồng chí thiếu khi tôi kiểm tra sau trận đánh Thành cổ Quảng Trị đã tìm về đơn vị được 6 đồng chí, thiếu đồng chí Nhập, người lính tôi yêu quý đã đề nghị chi bộ xét kết nạp Đảng cho anh. Gần 50 năm trôi qua, nay mỗi lần gặp mặt truyền thống, đồng đội đều nhắc đến anh nhưng vẫn chưa ai có tin tức gì về đồng chí Nhập.

ĐẶNG SỸ NGỌC