Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết, phát huy sức mạnh của các giai tầng, các tổ chức chính trị, các cá nhân... trong xã hội, phấn đấu cho sự nghiệp chung.
Qua phong trào cách mạng phản đế, phản phong diễn ra sôi nổi trong cả nước, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, đã khẳng định năng lực cách mạng của các giai tầng trong xã hội, vị trí đặc biệt và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với việc định hướng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất, tháng 10-1930 cũng nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập mặt trận thống nhất phản đế. Do đó, ngày 18-11-1930, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định ra chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh-hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
    |
 |
| Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu dự Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh-Liên Việt, tháng 3-1951. |
Ngày 28-1-1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người trở về mang theo hành trang lý luận và thực tiễn cách mạng với vũ khí vô địch là thế trận đại đoàn kết toàn dân tộc. Với tư tưởng khoan dung, độ lượng, nhân ái, Bác khuyên đồng bào, đồng chí bỏ qua mọi khác biệt, dồn hận thù vào đế quốc Pháp, Nhật để đoàn kết rộng rãi tất cả mọi người Việt Nam.
Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, từ ngày 10 đến 19-5-1941, đã phân tích tình hình thế giới và trong nước, khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Các lực lượng cần tập trung đấu tranh với bọn Nhật, Pháp, quyết giành cho được độc lập. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”, nghị quyết hội nghị khẳng định.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 thành công rực rỡ. Nhiều nội dung quan trọng được quyết định. Trong đó, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc là đế quốc Nhật và thực dân Pháp, theo đề nghị của Người, hội nghị quyết định thành lập mặt trận dân tộc mới lấy tên là Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để tập hợp quần chúng. Mặt trận có cương lĩnh, tôn chỉ và chương trình đoàn kết thật rộng rãi mọi tầng lớp, thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc có sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Và để giải quyết sâu sắc, sáng tạo nhiệm vụ số 1 này, trước mắt, tất cả hội quần chúng đều thống nhất là hội cứu quốc, như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Văn hóa cứu quốc... Ngoài ra, hội nghị chủ trương Đảng ta và Mặt trận Việt Minh cần giúp đỡ nhân dân Lào thành lập Ai Lao Độc lập đồng minh và giúp đỡ nhân dân Cao Miên (Campuchia) thành lập Cao Miên Độc lập đồng minh, tiến tới thành lập mặt trận thống nhất toàn Đông Dương nhằm đánh đuổi kẻ thù chung Nhật, Pháp, giành độc lập cho mỗi nước. Sau giải phóng, ta sẽ thành lập nhà nước dân chủ, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh-cờ của Mặt trận Việt Minh-là cờ của Tổ quốc. Đặc biệt, hội nghị quyết định thành lập, phát triển, tăng cường lãnh đạo các tổ chức vũ trang và nửa vũ trang, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước...
    |
 |
| Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Ủy ban Liên Việt toàn quốc tại Việt Bắc, tháng 2-1948. Ảnh tư liệu |
Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Trong Tuyên ngôn, Việt Minh nói rõ: “Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật-Pháp, trừ khử Việt gian. Mở con đường sống ấy cho đồng bào, Việt Nam Độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời, chào các bạn”. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm hệ thống các chính sách với tinh thần cơ bản là cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, người dân Việt Nam được sung sướng tự do. Về sau, ta đúc kết chương trình này thành 10 chính sách lớn và được Quốc dân Đại hội Tân Trào thông qua tháng 8-1945. Khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa độc lập thì trở thành chính sách cơ bản.
Do ở xa, giai đoạn 1940-1945, miền Nam có lúc bị gián đoạn sự lãnh đạo của Trung ương. Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, các tổ chức đảng từ xứ ủy đến thành ủy, tỉnh ủy bị vỡ, tổn thất nặng nề. Phải đến đầu năm 1942, một số tổ chức cứu quốc mới được thành lập ở các địa phương, góp phần giữ vững tinh thần chiến đấu cho quần chúng. Trong khi đó, địch vẫn khủng bố khốc liệt.
    |
 |
| Một khẩu hiệu kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp. |
Khó khăn là vậy, song những văn kiện, chương trình, điều lệ Việt Minh hiếm hoi, quý giá vẫn đến được với quần chúng nhân dân nhờ các phái viên của Tổng Bí thư Trường Chinh đã đánh đổi cả mạng sống hoặc sự tự do của mình để mang vào miền Nam. Sinh thời, nguyên Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt kể rằng: “Năm 1943, một lần đi công tác ở trên quận Châu Thành (Rạch Giá), tôi gặp đồng chí Đôn từ miền Bắc vào, được nghe nói về tình hình thế giới và trong nước. Lúc đó, tôi mới biết Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 đã quyết định chuyển hướng chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Mặt trận Việt Minh được thành lập thay cho mặt trận phản đế. Đồng chí Đôn giới thiệu cho tôi Chương trình của Việt Minh với các chính sách nhằm đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Đến cuối năm ấy, tiếp tục được nghe về Việt Minh và Chương trình Việt Minh từ những nguồn khác, tôi mới tin là thật”.
Thời kỳ này, tại Nam Kỳ có hai Xứ ủy là Tiền phong và Giải phóng hoạt động song song. Tuy cả hai đều phổ biến Cương lĩnh và chính sách của Việt Minh nhưng về tổ chức lại chưa thống nhất. Vì vậy, khi nhận các văn kiện mà phải khó khăn lắm mới mang được từ ngoài Bắc vào, các cán bộ của ta phải tổ chức in lại bằng giấy xu để tuyên truyền, phát động gây dựng phong trào Việt Minh và chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa theo chủ trương của từng Xứ ủy. Ban đầu, các tổ chức đảng ở miền Nam chỉ phổ biến đến các hội cứu quốc cấp quận, xã ven căn cứ, sau mới mở rộng dần ra những địa phương khác.
Sinh thời, đồng chí Dương Quang Đông (1902-2003), nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh kể: “Tháng 5-1946, trước khi lên đường sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, Bác Hồ đã viết “Thư gửi đồng bào Nam Bộ”. Người viết: “... đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta”. Nhớ lời dặn của Người, với khẩu hiệu “độc lập hay là chết”, đồng bào Nam Bộ đã cùng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đoàn kết thống nhất với nhân dân cả nước chống giặc ngoại xâm”.
Với chính sách mở rộng và phát triển tổ chức ở nhiều tỉnh, thành phố trên khắp đất nước, Việt Minh đã có cơ sở trong các công sở, các đội bảo an binh và chính các cơ sở này đã góp một phần không nhỏ vào việc giành chính quyền các cấp trong ngày tổng khởi nghĩa. Kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống Mỹ, cứu nước và cho đến ngày nay, mỗi thời kỳ có hình thức hoạt động, tên gọi khác nhau, nhưng Mặt trận luôn là nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội, giương cao ngọn cờ cách mạng vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển.
QUYẾT THẮNG