Giữa năm 1951, Đội điều trị 3, tiền thân của Bệnh viện Quân y 103 ngày nay, lên đường đi phục vụ Chiến dịch Quang Trung (còn gọi là Chiến dịch Hà Nam Ninh). Thời điểm đó, Đội đóng quân tại vùng Nho Quan, nằm giữa những cánh đồng lúa bao la xen lẫn một vài cụm làng mạc thưa thớt.

Về phía quân địch, do thiệt hại nặng trong Chiến dịch Biên giới năm 1950 và bị đánh đau tại chiến trường Đường 18, chúng co cụm lại tại các cứ điểm xung quanh Hà Nội, đặc biệt về phía Nam Thủ đô. Ngoài việc bắn đại bác và nã đạn súng cối vào các xóm làng ban đêm, hằng ngày, máy bay Hellcat bay lượn là là tầm thấp, bắn phá cản đường chi viện của ta.

Trước tình hình đó, chúng tôi quyết định bố trí đội hình để vừa hoạt động một cách linh hoạt vừa có thể cơ động phòng tránh phi pháo. Đội tạm thời được tách làm hai bộ phận: Trạm phẫu thuật, đóng ngay tại Rịa để trực tiếp đón nhận thương binh; còn khu điều trị lùi về phía sau, đóng quân dưới các sườn đồi của Trại Ngọc, trên con đường về Kim Tân và Thanh Hóa.

Chúng tôi gặp chính quyền địa phương và trình bày các yêu cầu cụ thể để phục vụ cho chiến dịch. Việc xây dựng lán trại cho thương binh ở Trại Ngọc cần được tiến hành càng sớm càng tốt, đồng thời tuyển mộ lực lượng tải thương. Các đồng chí cán bộ phụ trách hậu cần nhiệt tình đáp ứng và nói: “Bộ đội Cụ Hồ về đây để trừng trị bọn giặc ác ôn. Chúng tôi sẽ huy động mọi lực lượng và thực hiện mọi yêu cầu, cốt sao bộ đội tiêu diệt hết bọn chúng”.

leftcenterrightdel
GS Nguyễn Bửu Triều (thứ hai, từ trái sang) cùng các thầy thuốc ngoại khoa năm 2020. Ảnh: LAN ANH 

Đội dân quân vừa lợp xong mái nhà cho thương binh thì đột nhiên giữa đêm, ánh chớp và âm vang của tiếng súng đại bác inh tai từ đồn địch báo động chiến dịch đã bắt đầu.

Ngay từ những phút đầu tiên, tại Trạm phẫu thuật, Đội trưởng Nguyễn Dương Quang và tôi đã sẵn sàng có mặt dưới lều bạt lưu động. Các anh Quyền, Bảo, Chùy, chuyên gây mê và trợ thủ cũng đang sắp xếp dụng cụ phẫu thuật...

Chúng tôi không phải chờ đợi lâu. Một cụ già trong làng bị thương ở bắp chân đang chảy máu đã được cấp cứu kịp thời. Trước khi trời sáng, những cáng thương binh đầu tiên được chuyển đến. Sau một đêm chiến đấu ác liệt, nhiều chiến sĩ của ta bị choáng nặng do bom, mìn gây tổn thương phức tạp. Chúng tôi nhanh chóng hồi sức tích cực, sưởi ấm, truyền dịch và xử lý từng loại vết thương. Mặc cho máy bay địch bắn phá điên cuồng khắp vùng, Đội điều trị vẫn bình tĩnh thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, hết sức cấp cứu hồi phục sức khỏe cho bộ đội. Các thương binh lần lượt được an toàn chuyển về khu điều trị ở Trại Ngọc và được các anh Tiến, Thuận, Sĩ, Trác cùng nhân viên y tá, hộ lý đón nhận.

Việc chăm sóc và điều trị được thực hiện theo phác đồ đã quy định. Tuy nhiên, nét nổi bật là tình cảm mà mọi người dành cho thương binh. Các nữ y tá thức suốt đêm chăm sóc, nâng giấc cho thương binh nặng và phải nằm bất động. Nhiều phụ nữ địa phương tình nguyện tham gia công việc tiếp phẩm và cấp dưỡng để các nhân viên quân y có thêm thời giờ săn sóc thương binh. Tình cảm chân thành có sức lan tỏa và chan hòa trong Khu điều trị. Tôi nhớ có anh Long, trong chiến đấu bị thương mất một cánh tay, đã tự nguyện ở lại sinh hoạt như nhân viên của Đội.

Đội điều trị 3 đã hoàn thành nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Quang Trung. Đội vinh dự được đề cử y tá Phạm Thị Tín tham gia Hội nghị chiến sĩ thi đua toàn ngành. Chiến dịch Quang Trung đã lập nên chiến thắng lịch sử của dân tộc và cũng là chiến dịch thấm đậm tình quân dân. Bà con sẵn sàng hy sinh, gian khổ, tạo điều kiện để Đội điều trị 3 chúng tôi phục vụ và bảo vệ thương binh an toàn trong suốt chiến dịch. Tôi nhớ hồi ấy, để chia tay và cảm ơn nhân dân địa phương, chúng tôi tổ chức một buổi liên hoan văn nghệ trong khung cảnh thời chiến. Anh Thuận ứng khẩu một bài hát ca ngợi chiến công của Quân đội ta. Anh Sĩ cũng ngâm một bài thơ biểu dương tình cảm quân dân trong chiến đấu với giọng pha âm sắc Nghệ Tĩnh quê hương...

Những hình ảnh xúc động, cao cả và tình cảm thân thương của nhân dân dành cho bộ đội còn được lưu giữ mãi trong tâm trí chúng tôi!

LÊ CƯỜNG (Ghi theo lời kể của Giáo sư Nguyễn Bửu Triều (1923-2025), nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại, Trường Đại học Y Hà Nội)