Theo hồi ký “Con đường tôi đã chọn” cũng như lời kể của Trung tướng Lê Văn Tưởng lúc sinh thời tại nhiều cuộc gặp mặt cán bộ lão thành tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh), Chi bộ xã Thạnh Lợi là một chi bộ mạnh được tổ chức từ năm 1930. Đến năm 1940, chi bộ đã có gần 20 đảng viên. Nhận lệnh chuẩn bị khởi nghĩa từ tháng 9-1940, Chi bộ xã Thạnh Lợi đã nhanh chóng lãnh đạo địa phương tập hợp lực lượng, tổ chức luyện võ, côn quyền cho quần chúng cách mạng. Một số đảng viên, trong đó có ông được chi bộ chỉ định sẽ ra công khai sau khi giành chính quyền.
Đêm 22-11-1940, khởi nghĩa bắt đầu. Đồng chí Lê Văn Tưởng phụ trách Đội du kích xã Thạnh Lợi cùng những đảng viên được phân công lập tức tước vũ khí của hương quản Hữu và hương chủ Cường ở Bình Hòa, thu được 2 khẩu súng calip 24 và 16. Quân khởi nghĩa đánh chiếm trang trại của quan nhất Thưởng, thu được 2 khẩu súng. Ngày 26-11-1940, đội quân khởi nghĩa do ông chỉ huy bất ngờ tấn công đồn điền mía Hiệp Hòa.
Tên chủ người Pháp chạy trốn. Kiểm tra nhà hắn, du kích thu được 1 khẩu súng calip 12 hai nòng và 1 khẩu súng lục 6,35mm. Sau giải phóng năm 1975, ông đã trao tặng khẩu súng này cho Bảo tàng tỉnh Long An. Trung tướng Lê Văn Tưởng kể: “Những ngày Nam Kỳ khởi nghĩa, quần chúng nổi dậy chiến đấu rất dũng cảm. Chính quyền thực dân Pháp ở một số nơi hoang mang, tan rã. Qua mỗi trận đánh, chúng tôi ngày một trưởng thành. Tuy nhiên, do thời cơ chưa chín muồi, nhất là đội viên các đội tự vệ và du kích trong cuộc khởi nghĩa hầu hết đều trẻ tuổi, chiến đấu chống thực dân Pháp bằng vũ khí thô sơ, trong khi kẻ địch mạnh hơn rất nhiều cả về lực lượng và vũ khí, trang bị. Những đồn, bốt ta chiếm được dần bị chúng chiếm lại, quân du kích cũng bị đẩy lui vào Đồng Tháp Mười”.
    |
 |
Trung tướng Lê Văn Tưởng kể chuyện chiến đấu, năm 2002. Ảnh: VĂN HƯỚNG
|
Đặc biệt, ngày 8-1-1941, thực dân Pháp tổ chức cuộc càn quét lớn có lính lê dương tham gia, có thủy phi cơ dẫn đường, có máy bay ném bom quần thảo quanh vùng Thủ Thừa. Chúng sẵn sàng ném bom nếu phát hiện cộng sản. Trước tình hình đó, hai đồng chí Tỉnh ủy viên là Lưu Dự Châu (phụ trách Vàm Cỏ Tây), Trần Văn Đấu (phụ trách Vàm Cỏ Đông) và các đồng chí lãnh đạo địa phương đã họp bàn, thống nhất chủ trương lui vào cứ, củng cố lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa lần thứ hai. “Chúng tôi chọn giữ lại những người trung kiên, còn ai chao đảo, không vững vàng thì cho về địa phương, gia đình. Vì vậy, lực lượng còn lại khoảng 100 người lo xây dựng căn cứ ở vùng Móp Xanh.
Chúng tôi lập tổ vũ khí, tổ chức cơ sở hậu cần... sẵn sàng chiến đấu lâu dài. Đến tháng 4-1941, chúng tôi nhận được chỉ thị của Trung ương kết thúc cuộc khởi nghĩa, đảng viên trở về dựa vào dân tiếp tục hoạt động bí mật. Ai đã bị lộ thì tránh né một thời gian rồi liên lạc với chi bộ sau”, Trung tướng Lê Văn Tưởng nhớ lại.
Để đàn áp phong trào yêu nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thực dân Pháp đưa những người tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa bị bắt ra xử án. Đồng chí Lê Văn Tưởng bị tòa áo đỏ (tòa cấp cao của thực dân Pháp ở thuộc địa) tuyên án tử hình vắng mặt. Bọn tề ở địa phương điên cuồng lùng sục, tìm bắt ông, nhưng được đồng bào che chở, ông đều vượt qua tai mắt của chúng, tiếp tục hoạt động. Ngày 13-8-1945, đồng chí Chín Trọng, Bí thư Tỉnh ủy Tân An chủ trì hội nghị lãnh đạo tỉnh, quyết định phân công ông Tưởng tham gia Thường vụ Huyện ủy Thủ Thừa, phụ trách công tác quân sự.
Với kinh nghiệm đã có trong khởi nghĩa Nam Kỳ, ông huy động mỗi xã 3 đảng viên và quần chúng cách mạng trung kiên để tổ chức LLVT. Ông viết trong hồi ký: “Tôi bắt liên lạc với Thanh niên Tiền phong để tăng thêm lực lượng và tạo thế công khai. Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền xong, tôi thu hết súng của 5 đồn thuộc huyện Thủ Thừa, trang bị cho dân quân cách mạng. Hằng ngày, tôi phân công cán bộ quân sự hướng dẫn anh em tập luyện đội ngũ và bắn súng.
Khi thực dân Pháp xâm chiếm Sài Gòn ngày 23-9-1945, đội quân do tôi tổ chức ngay lập tức thành lập mặt trận chiến đấu ngăn chặn giặc Pháp ở phía Nam cầu Bến Lức. Sau khi quân Pháp chiếm tỉnh Tân An, tôi lại được giao tổ chức xây dựng LLVT tỉnh để kháng chiến. Lực lượng này tiếp tục phát triển và chiến đấu dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh Quân khu 8 cho đến khi Hiệp định Geneva được ký kết. Chúng tôi tập kết ra Bắc trong đội hình Sư đoàn 330. Sau đó lần lượt trở về miền Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến ngày toàn thắng 30-4-1975”.