Được gặp Bác Hồ
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Nguyễn Thị Định được Tỉnh ủy Bến Tre phân công về Đoàn Phụ nữ Cứu quốc tỉnh, phụ trách xây dựng hệ thống cơ sở, tổ chức các đoàn phụ nữ ra hỏa tuyến chúc tết bộ đội. Trong hồi ký “Không còn con đường nào khác” (xuất bản năm 1976), bà kể: “Chúng tôi rơi nước mắt khi thấy anh em đi chiến đấu về, người nào cũng lấm lem từ đầu đến chân. Quần áo bị rách nát, đầu tóc rối bù vì không có đồ hớt. Thiếu thốn đủ thứ nhưng các anh vẫn vui đùa, ca hát. Những ngày sống với bộ đội không được lâu nhưng chị em rất thông cảm, yêu thương và mến phục bộ đội ta. Chúng tôi cảm động và có ý nghĩ sâu sắc “bộ đội là gian khổ nhất đời”. Đáng lẽ chúng tôi chỉ đến thăm, tặng quà tết rồi đi nhưng tất cả chị em đều xung phong ở lại tận 3 ngày để khâu vá và giặt giũ cho các anh em bị ốm”.
“Nhờ các chị về báo cáo với trên là anh em chịu được hết mọi thiếu thốn. Có điều thiếu súng đạn quá, mong cấp trên giải quyết cho chứ mỗi tiểu đội chỉ có hai, ba cây súng thì đánh nhau cực lắm!”, lời gửi gắm của bộ đội khiến bà nhớ mãi và quyết tâm làm tốt công tác vận động quần chúng để góp phần chia sẻ khó khăn với những người lính đang trực tiếp chiến đấu. Chính bà cũng không ngờ vào một ngày tháng 5-1946 lại được trực tiếp báo cáo tâm nguyện này trước Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một ngày cuối tháng 3-1946, đang say sưa công tác thì bà được gọi về cứ, nhận nhiệm vụ đặc biệt và hoàn toàn bất ngờ là tham gia đoàn công tác cùng các đồng chí: Đào Văn Trường, Khu bộ trưởng Khu 8; Ca Văn Thỉnh, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp... ra miền Bắc báo cáo tình hình Nam Bộ. Từ Bến Tre, đoàn theo đường biển đến Phú Yên rồi lên tàu ra Hà Nội. Tới Hà Nội hôm trước, hôm sau, Bác đã đến thăm. Trong nhiều sự kiện, Thiếu tướng Nguyễn Thị Định từng kể: Đó là một chiều tháng 5, nắng hè rực rỡ. Trong lúc chúng tôi đang trò chuyện thì nghe tiếng ô tô đỗ trước cổng. Một cụ già phúc hậu, tay chống gậy thoăn thoắt bước vào. Bất ngờ và vui sướng, tôi reo lên “đúng là Bác rồi!”. Bác giống hệt như trong ảnh mà tôi đã thấy.
Năm ấy, tóc Bác chưa bạc nhiều. Vừa ngồi, Bác hỏi thăm ngay tình hình Nam Bộ và ưu tiên tôi là phụ nữ nói trước. Do xúc động, tôi luống cuống đứng lên, bao điều chuẩn bị chạy đâu mất. Bác cười, hỏi luôn có phải rất thiếu súng không. Thật là kỳ diệu, Bác đã nói đúng điều quan trọng nhất mà các đồng chí lãnh đạo và bộ đội ở Nam Bộ đã dặn chúng tôi trước khi ra Bắc. “Được lời như cởi tấm lòng”, tôi liền báo cáo với Bác tâm nguyện của đồng bào miền Nam gửi gắm. Người khẳng định, Trung ương và Chính phủ sẽ có súng gửi về Nam nhưng căn dặn chúng tôi phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy súng của địch thì vốn mới nhiều.
Ít ngày sau, đoàn cán bộ miền Nam được đến mừng thọ Bác. “Trong bữa cơm thân mật, Bác dặn đoàn về báo cáo với đồng bào miền Nam thân yêu rằng: “Lòng già Hồ, lòng nhân dân miền Bắc lúc nào cũng ở bên cạnh đồng bào miền Nam ruột thịt. Cả nước ta một lòng đánh đuổi giặc Pháp. Nhất định chúng ta sẽ thắng lợi, sẽ có ngày đoàn tụ Nam-Bắc một nhà. Lúc đó cả nước ta sẽ liên hoan thắng lợi một thể. Chị Định và một số đồng chí được Bác chỉ định ở lại học tập một thời gian rồi về tiếp tục kháng chiến”, Đại tá Đào Văn Trường, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam từng kể với chúng tôi tại nhà riêng ở Hà Nội.
Vượt biển mang vũ khí về miền Nam
“Từ hôm đó, tôi luôn luôn nghĩ tới một cuộc mít tinh lớn nhất ở Sài Gòn đón Bác Hồ vô Nam sau ngày kháng chiến thành công. Ngày ấy sẽ là một ngày sung sướng nhất đời của nhân dân Nam Bộ, niềm vui chiến thắng chung của cả nước Việt Nam”, đồng chí Nguyễn Thị Định viết trong hồi ký.
Sau thời gian ở lại Hà Nội làm việc và học tập, đồng chí Nguyễn Thị Định vào Quảng Ngãi nhận súng, tiền và tài liệu của Trung ương mang về cho Xứ ủy Nam Bộ. Từ Tuy Hòa trở vào, trên đường bộ, địch đặt rất nhiều đồn bốt và kiểm soát gắt gao, để tải hết cả chục tấn vũ khí mang theo, bà cùng các đồng chí của mình chỉ còn cách đi bằng đường biển. Nhưng đường này cũng bị địch kiểm soát chặt không kém. Hằng ngày, chúng cho máy bay, tàu biển rà đi rà lại liên tục và đã bắn chìm nhiều ghe câu của đồng bào.
“Các anh mua cho tôi một chiếc thuyền cũ, chở được khoảng 12 tấn. Tôi rất băn khoăn, lo cách làm sao đưa được số súng đạn này về đến Khu 8. Để ngụy trang che mắt địch, chúng tôi mua một trăm miệng chài và những chum nước mắm xếp đầy mạn thuyền. Cứ khuya là chúng tôi lẳng lặng chất súng vào khoang thuyền, ban ngày lại dỡ chài ra phơi, xếp đặt các chum nước mắm từ chỗ này qua góc khác để che mắt mọi người. Mất gần một tuần, hàng mới nằm hết dưới thuyền. Vì đây là chuyến đi biển từ Bắc vào Nam đột xuất đầu tiên của ta nên chưa có sẵn lực lượng. Đoàn có 4 người: Tôi, anh Phong-một cán bộ vô tuyến điện Trung ương đưa vào bổ sung cho Khu 8 và 2 đồng chí Vệ quốc đoàn của tỉnh Quảng Ngãi theo bảo vệ. Anh Phong chưa đi biển bao giờ, 2 đồng chí Vệ quốc đoàn đều là tân binh trẻ, rất hăng hái nhưng chưa có kinh nghiệm chiến đấu. Công việc chuẩn bị đã xong mà chưa tìm được người chèo, lái thuyền. Mãi chúng tôi mới chọn được 4 người quê ở Gò Công. Họ theo ghe ra bán gạo, chẳng may ghe bị máy bay bắn chìm, đang tìm đường về. Sau khi xem xét kỹ, biết họ là những người tốt, đi biển giỏi nên chúng tôi thuê đưa thuyền về Bến Tre”, Thiếu tướng Nguyễn Thị Định kể trong hồi ký.
Thực hiện chủ trương “gặp khó với trời còn hơn là bị khó với địch”, dám đi trong những lúc dông bão là “ngon nhất”, đoàn phải mất một tháng chờ đợi. Dù đôi lúc nghe tin kẻ thù bắn thuyền câu ngoài biển làm chết nhiều người, nhưng cả đoàn luôn vững lòng, quyết tâm trở về. Bà Nguyễn Thị Định kể trong một bài báo rằng: “Lúc chuẩn bị, chúng tôi đã tính đến tình huống phải giáp chiến với địch nên trên thuyền có 2 trung liên sẵn sàng nhả đạn. Đầu và cuối thuyền cũng bố trí chất nổ. Trước hôm xuất phát, tập thể đã họp quyết nghị: Phải mang bằng được số vũ khí của Chính phủ, của Bác Hồ về tới Nam Bộ, dù có chết cũng không để rơi vào tay quân địch”.
    |
 |
Đồng chí Nguyễn Thị Định.
|
Một buổi chiều tháng 11-1946, gió chướng thổi mạnh, con thuyền chở vũ khí và những cán bộ của ta nhổ neo, chồm ra biển. Dọc đường hành quân, thuyền không ít lần đối diện với tình huống “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng đều may mắn thoát hiểm trong gang tấc. 3 ngày, 4 đêm trôi qua thuận lợi. Theo tính toán thì chỉ 5 ngày 5 đêm là tới đích. Nhưng đến đêm cuối, trong lúc dò đường vào bến thì thuyền trồi lên cồn cát rồi mắc cạn. Giữa đêm tối mịt mùng, biển rộng mênh mông, xung quanh là địch, thuyền cứ nằm đó chờ nước lên không biết đến bao giờ, nếu trời sáng sẽ vô cùng nguy hiểm. Sau hội ý, đồng chí Nguyễn Thị Định vào bờ tìm liên lạc. Giao cặp tiền và tài liệu cho đồng chí Phong, bà đi cùng người lái thuyền tên Châu xuống thúng bơi vào đất liền. Theo ước định, nếu mọi việc êm thì 12 giờ đêm, họ sẽ huơ đuốc vòng tròn. Còn cứ im lặng thì anh em phải rút đi, sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu giữ thuyền, bảo vệ hàng.
Vào bờ, dù choáng váng do say đất, bà nhất định không nghỉ, nhắm hướng có vệt cây xanh đi ngay. Nhìn thấy ánh đèn lờ mờ, không biết ta hay địch, hai người vẫn đánh liều lần vào gần. Nghe tiếng nói chuyện, tiếng hát của trẻ con, đoán chắc là ta rồi, bà kêu lớn nhờ giúp đỡ. Lập tức có tiếng chân chạy thình thịch trong xóm, rồi một nhóm chừng 7 thanh niên vác tầm vông chạy ra, yêu cầu hai người giơ tay lên cao.
“Tôi vừa tiến lại gần vừa lớn tiếng giải thích mình là người đi biển bị mắc cạn không biết đây là nơi nào. Một người dáng chỉ huy, ra hiệu đưa chúng tôi vào nhà và tách từng người ra để điều tra. Họ hỏi dồn tôi hết câu nọ đến câu kia. Mang tâm trạng nửa tin nửa ngờ nên tôi không dám nói thật, một mực nhận là người buôn mắm, do lái thuyền không thông thuộc dòng nước nơi đây nên mắc cạn và hỏi khéo xem đây vùng Pháp hay vùng Việt Minh. Qua một hồi hỏi đi hỏi lại, cả hai bên đều không nhận được câu trả lời mình mong muốn. Trong khi nhóm thanh niên bàn bạc, tôi giả đò khóc, tranh thủ lòng trắc ẩn của mấy chị lớn tuổi để dò hỏi. Thật không ngờ, bà con ta rất cảnh giác, chỉ an ủi tôi vài câu chứ không tiết lộ gì. Giữa lúc phân vân, tôi thấy một thanh niên tưởng tôi không biết chữ đã ngồi viết biên bản ngay trước mặt. Tôi vẫn giả đò khóc nhưng mắt cố liếc nhìn coi anh viết gì, thì thấy dòng chữ: Việt Nam Dân chủ cộng hòa/ Độc lập-Tự do-Hạnh phúc. Mừng quá, tôi kêu người phụ trách ra sân, rồi móc giấy giới thiệu gài kỹ trong lớp tóc dày ra. Xem xong, đồng chí này nhảy lên vì mừng và hô lớn: Trời ơi! Chị Ba Định đây các anh em ơi!”.
Hóa ra, nhóm thanh niên này được Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam cử tới chờ đón đồng chí Nguyễn Thị Định. Lúc này, biết chắc chắn đã an toàn, bà để ông Châu trở ra bờ báo hiệu. Tinh mơ hôm sau, với sự giúp đỡ của nhân dân, con thuyền lại ra khơi rồi vào tới Rạch Heo (bấy giờ thuộc huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre) an toàn. Đồng chí Nguyễn Thị Định bàn giao số vũ khí cho Khu bộ trưởng Khu 8 Trần Văn Trà. Trở về quê hương, bà cùng đồng bào kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mỹ, trở thành nữ tướng đầu tiên của Quân đội ta. Bà từng đảm nhiệm nhiều trọng trách như: Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, V, VI; Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam...
NGUYỄN QUANG THỊNH